• Bình luận

    Cái chết của tâm hồn người Việt Nam

    da dieu 1

    Cá chết tại Việt Nam chỉ là mặt nổi của vấn đề đang được che dấu vì thực chất còn nhiều cái chết đang bị che đậy dưới ách thống trị của đảng cộng sản VN đó là những cái chết của tâm hồn VN, cái chết của lương tâm, cái chết của luân thường đạo lý, cái chết của lý trí (nhìn thấy nhưng sợ mất miếng cơm manh áo nên phải ngậm miệng là ngơ) và cái chết của sử lệ thuộc chính trị (lệ thuộc Tầu Cộng lệ thuộc Việt Cộng do đó sẵn sàng làm Hán ngụy, bán nước cầu vinh)

    Cái chết của tâm hồn người Việt Nam

    image

     Trong chuyến thăm vùng biển Vũng Áng, Hà Tĩnh, chứng kiến cảnh chết chóc tràn bờ, Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt nhận định: “Tôi thấy cái chết của biển cũng như của cá nó chỉ là cái ngọn vấn đề, cái chính gây ra cái chết này là do cái chết của tâm hồn con người. Tôi thấy có ít nhất có bốn cái chết: cái chết của lương tâm, cái chết của luân lý, cái chết của lý trí, cái chết của chính trị.” 

    image

     

    Lương tâm là ơn Chúa ban cho người ta để người ta phân biệt được điều gì tốt điều gì xấu, khi làm điều tốt thì lương tâm thanh thản, an ủi còn khi làm điều xấu lương tâm cắn rứt. Nhưng khi lương tâm chết rồi nó không còn cắn rứt nữa. Cho nên khi làm điều xấu mà nó không còn cắn rứt nữa thì lương tâm đó chết rồi. 

    Luân lý là những chuẩn mực, quy luật để hành xử cho đúng đạo lý. Khi cư xử không còn theo đạo lý nữa, không còn biết đâu là xấu – tốt thì luân lý đó chết rồi, nó không bị chi phối bởi những chuẩn mực đạo đức, không còn quy tắc đạo lý nữa.

    image

    Lý trí là sự hiểu biết để giúp người ta biết phân định những giá trị cao thấp khác nhau như Đức Thánh Cha nói rằng: “thời gian lớn hơn không gian, toàn phần lớn hơn một phần”. Bây giờ người ta chọn một phần mà quên đi toàn phần thì cái đó là cái chết của lý trí không còn phân định được và chọn các giá trị thấp mà bỏ các giá trị cao. 

    Chính trị chính là nghệ thuật tổ chức sắp xếp để cho mọi người được hạnh phúc. Khi việc mưu cầu hạnh phúc cho con người đã chết thì biển chết, cá chết là hậu quả.” Lời nhận định của một nhà lãnh đạo tôn giáo quả thật rất sâu sắc và chí lý.

    image

    Đất nước VN đang đối phó với cái chết thể lý do nhiễm độc mà ai cũng thấy sờ sờ trước mắt, ngay trên mâm cơm nhà mình mỗi ngày. Nhưng sự nhiễm độc này chưa tàn phá và chết chóc cho bằng sự nhiễm độc trong tâm hồn mà Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp trong bài giảng ngày 13.06, lễ thánh Antôn tại Trại Gáo, Vinh đã nói: “Hôm nay người dân VN với mâm cơm đầy nghi nan, không biết đâu là thực phẩm bẩn – sạch và ranh giới giữa chúng rất mong manh. Một số người ham lợi nhuận, vì đồng tiền đã bán rẻ lương tâm, chế biến những thực phẩm bẩn đem bán trên thị trường.” 

    Hai vị chủ chăn cùng chung một nhận định về cái chết trong tâm hồn con người. Đây là thứ chất độc đáng sợ hơn cả! Bởi độc bên ngoài, theo thời gian người ta có thể cùng chung tay loại trừ nó, nhưng độc tố hận thù trong lòng khiến người ta hại nhau, giết nhau một cách thản nhiên thì không còn thời gian để cứu vớt. 

    image

    Máu độc trong tâm hồn là hậu quả một nền giáo dục độc tôn do Đảng Cộng Sản VN Vô Thần cai trị hơn 70 năm ngoài Miền Bắc và hơn 40 năm trong Miền Nam. Một nền giáo dục mà theo lời nhận định của Đức Cha Phaolô là “đã bị nhiễm bẩn” bởi lòng bạo lực, thù hận và ích kỷ. Bao thế hệ trẻ VN dưới mái trường XHCN đã được “dạy” cho biết về lòng thù hận đối với Mỹ, Ngụy. Tôi còn nhớ như in ngày mình được học về lòng căm thù “thằng Ngụy”. Đầu óc non nớt trẻ thơ chưa hiểu “thằng Ngụy” là thằng nào mà nó phải đáng nguyền rủa như thế! Tôi đem thắc mắc ấy về hỏi Cha tôi, vốn là một cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, Cha tôi cười chua chát và chỉ vào mình: 

    “Là thằng này đó con!”

    image

    Những khái niệm về sự quảng đại, lòng bao dung, ơn tha thứ là những mệnh đề khó hiểu. Bởi thế, khi cá chết trắng Miền Trung, bao gia đình đớn đau tuyệt vọng, đói khát lầm than, nhiều người đến làm từ thiện thì họ lại nêu ra câu hỏi: “làm từ thiện để làm gì?”, trên một chương trình truyền hình hẳn hoi. 

    Sự im lặng, làm ngơ của nhà cầm quyền trước tình trạng nhiễm bẩn môi trường biển, cá chết hàng loạt hơn 70 ngày qua không phải là ngẫu nhiên. Họ thừa cơ sở dữ liệu để có thể tuyên bố nguyên nhân trong 1 ngày, nhưng cố tình che đậy. Đó chính là thứ độc hại trong tâm hồn mà CS đã chủ mưu từ khi lên cầm quyền.

    image

    Giả như tuyên bố nhanh nhà máy Formosa là thủ phạm thì chẳng khác nào thừa nhận việc làm phi nhân của mình khi vì lợi lộc của một nhóm lợi ích mà gây thiệt hại cho toàn dân. Nếu chỉ mặt Formosa cũng đồng nghĩa việc thừa nhận hối lộ, để làm ngơ cho Trung cộng hoàn toàn thao túng trên đất Việt. 

    Vì lẽ, Cộng sản xây dựng học thuyết không phải trên lòng yêu thương, tình đồng loại hay sự dấn thân cho lợi ích cộng đồng mà hoàn toàn ngược lại. Sức mạnh của người Cộng sản hình thành trên nền tảng của lòng ích kỉ, tính thù hận và óc vụ lợi. Lúc mới hình thành, người Cộng sản đã dựa vào hạt gạo tình thương của nhân dân để mà sống, đến khi phát triển, có chỗ dựa thì họ quay sang đề phòng nhân dân và hoàn toàn xa rời nhân dân.

     

    water red smoke sea moon

    Đến khi nắm quyền lực trong tay, họ tồn tại bằng cách duy trì lòng thù hận, giáo dục về lòng thù hận và phát triển lòng thù hận. Lòng thù hận luân chuyển trong lòng chế độ như một thứ máu độc, nó kích thích tính ích kỉ, sự dửng dưng và vô cảm trước nỗi đau đồng loại. Và chưa bao giờ mà thứ máu độc này lại hoành hành trên dân tộc Việt Nam như bây giờ. 

    Và một khi chất độc tâm hồn đã gây cái chết trong lòng người, thì mọi thứ độc tố bên ngoài chỉ còn là phụ tùy.

    GNsP

    22.06.2016

     
    image
  • Biên khảo

    4 mẩu chuyện làm thức tỉnh lòng người.

    Hanh phuc
    (Trích trên net work)

    Cuộc sống chính là triết lý để ta suy ngẫm, chúng ta sẽ học được những bài học thật ý nghĩa ngay chính trong cuộc sống hiện tại. Tôi chợt nhớ đến một định luật tự nhiên của Trời Đất, đo là định luật (Lực và phản Lực) bất cứ một lực nào đẩy về phía trước thì đều có một lực tương đồng đẩy lùi về phía sau. Từ đó ta suy ngẫm ra, bất cứ một hành động nào tạo ra đều có một sự phản hồi cho hành động đó, đôi khi chúng ta không để ý đến những trên thực tế nó vẫn tồn tại. Ví như một lời nói ân tình nghe thật êm tại nó có tác dụng xoa dịu hệ thần kinh làm ấm lòng người nghe, ngược lại một lời nói hằn học nó có tác dụng gây ra giận dữ làm hại đến tâm gan.


    Hãy Yêu người, yêu đời, cho đi yêu thương thì nhận lại thương yêu để rồi khi “nhắm mắt ra đi” vẫn còn lại trong thương tiếc của nhiều người….

    Cuộc sống  là  triết lý để ta suy ngẫm…
    4 mẩu chuyện làm thức tỉnh người đọc.

     

    1- Chuyện thứ nhất: Duyên nợ đời người.

    Xưa, có một chàng tên Thư Sinh, anh và bạn gái đã đính ước và chuẩn bị hôn lễ. Thế nhưng trước đó ít ngày, cô gái lại lấy người khác.Thư Sinh bị lâm bệnh nặng. Vừa khi đó, một du khách đưa Thư Sinh chiếc gương soi.Thư Sinh nhìn thấy xác một cô gái trôi dạt vào bờ biển, trên người cô ta không một mảnh vải che thân.
    Người đầu tiên đi qua chỉ thoáng nhìn, lắc đầu rồi…đi. Người thứ 2 đi qua cởi chiếc áo khoác đắp lên người cô gái. Người thứ 3 đi qua bèn đào hố và xây mộ cho cô gái và cho biết cô gái xấu số đó chính là bạn gái anh ta trong kiếp trước.

    “Anh là người qua đường thứ 2 đã đắp áo cho cô gái. Đến nay, cô gái gặp chỉ là để trả..nợ lòng tốt  của anh thôi! Còn người mà cô ấy phải báo đáp cả đời đó chính là người thứ 3 đã chôn cất cô cẩn thận, người đó chính là chồng hiện tại của cô gái“.. Thư Sinh nghe xong liền tỉnh ngộ mọi chuyện.

     

    Chuyện thứ 2: Tấm lòng trẻ thơ.

    Một bà mẹ đơn thân vừa chuyển nhà, bà phát giác hàng xóm là một gia đình nghèo với bà góa và hai con. Một hôm bị cúp điện, bà đành thắp nến cho sáng. Lúc sau, có tiếng người gõ cửa, bà mở cửa ra…thì chính là con của hàng xóm. Đứa bé nói: “Kính chào Dì, Dì có thêm cây nến nào không?” Bà ta thầm nghĩ: “Gia đình này nghèo đến nỗi cả nến cũng không có ? Tốt nhất không cho,vì cứ cho như thế họ sẽ ỷ lại không chịu mua”.
    Bà liền trả lời : “Không có!”. Đúng lúc bà ta đang đóng cửa, đứa bé cười và nói: “Con biết là nhà dì không nhiều nến..”. Nói xong, nó lấy trong túi 2 cây nến và thưa: “Mẹ con sợ dì sống một mình thiếu nến..và sai con đem  tặng dì 2 cây vì cúp điện lâu lắm”… Bà ta vừa tự trách vừa cảm động rơi nước mắt  ôm chặt đứa bé!

     
    3- Chuyện thứ ba: Chúng ta chỉ bất tiện khoảng 3 giờ thôi!

    Ngày nọ…tôi may mắn mua được vé về quê ngoại cùng chồng, nhưng khi lên xe thì nhìn thấy một  cô đang ngồi ở ghế của chúng tôi.Chồng tôi bảo tôi ngồi ở cạnh cô đó và chàng thì đứng. Tôi phát giác chân phải của cô này bị tật..có chút trở ngại, lúc đó tôi hiểu ra tại sao chồng tôi làm như thế. Chồng tôi đứng như vậy từ  Đà Nẵng ra Huế mà không hề đòi lại chỗ của mình.
    Khi đến nơi tôi nói với giọng điệu buồn xót xa: “Nhường ghế là việc nên làm, thế nhưng đường quá xa… sao anh không nói cô này luôn phiên đổi chỗ đứng và anh ngồi một lúc chứ?”.

    Chồng tôi nhẹ nhàng nói: Cô này bị tật sẽ chịu cả đời.. còn anh chỉ mỏi chân có 3 tiếng thôi mà em!
    Nghe chồng nói vậy, tôi quá  xúc động tự nghĩ:” Được chồng vừa tốt bụng vừa lương thiện là mãn nguyện lắm rồi!”.. và lòng tôi trở nên ấm áp thêm nhiều.

    Chuyện thứ 4: Luật nhân quả.

    Một đêm khuya đầu Xuân, lúc mọi người đều ngủ say thì đôi vợ chồng tuổi đã cao bước vào khách sạn, đáng buồn.. là khách sạn hết phòng.
    Nhân viên tiếp tân không đành lòng để cặp vợ chồng này phải lủi thủi tìm khách sạn khác, anh liền dẫn họ vào căn phòng và thưa: “Đây không phải là phòng tốt nhất nhưng ít nhất 2 bác cũng không phải đi tìm nơi khác nữa”.

    Cặp vợ chồng thấy căn phòng tuy nhỏ nhưng sạch nên quyết định ở lại.
    Hôm sau, khi trả tiền phòng thì anh nói: “Hai Bác không cần trả tiền…vì phòng đó là phòng của cháu! Xin chúc hai Bác có cuộc du lịch vui vẻ”.
    Thì ra, anh ta đã ngủ qua đêm tại quầy tiếp tân và  nhường phòng cho họ. Cặp vợ chồng cảm động và nói: “Chàng trẻ à, cậu là nhân viên khách sạn tốt nhất mà chúng tôi gặp…Cậu sẽ được đền đáp”. Chàng trai cười rồi tiễn cặp vợ chồng.. và nhanh chóng quên chuyện này.

    Bỗng một ngày, anh ta nhận được bức thư, trong đó có tấm vé đi du lịch New York, chàng xin phép chủ và đi. Khi đến đúng địa chỉ ghi trong thiệp  là căn biệt thự to lớn sơn mầu xanh. À thì ra… 2 người mà anh ta tiếp đón trong đêm khuya đó chính là vợ chồng nhà tỷ phú! Ông bà này còn mua tặng một tiệm rượu lớn  giao cho anh làm quản lý.

    Kết luận: NHÂN-QUẢ đều do mỗi người nắm giữ, khi chưa xác định được mục tiêu  của đời.. thì hãy dùng tấm lòng của mình để làm việc gì đó. Mỗi một cá nhân đều là một nhân viên phục vụ, những điều lớn lao đều bắt nguồn từ việc ta phục vụ cho người khác: Phục vụ  người khác nhiều bao nhiêu thì kết quả chúng ta nhận được càng nhiều bấy nhiêu!
    Trên đường đời, có lúc ta cười sảng khoái, nhưng cũng có khi buồn đến nhỏ lệ!. Vui lúc thành công.. thì xin đừng tuyệt vọng khi gặp thất bại.
    Giàu sang phú quý đến.. thì vui nhưng xin đừng khổ đau buồn chán khi thất bại nghèo túng! Trên  đời không cần điều quá cao, chỉ cần làm việc bằng sự chân thật là đủ:
    – Nếu muốn có bạn tốt, thì ta phải đối tốt với người khác.
    – Nếu muốn vui vẻ và hạnh phúc, xin hãy cố gắng làm việc thiện giúp người khác, không lâu  bạn sẽ nhận ra mình cũng đầy đủ và sung sướng!
    Yêu người, yêu đời, cho đi yêu thương thì nhận lại thương yêu và rồi “nhắm mắt ra đi” trong thương tiếc của nhiều người….

  • Biên khảo

    Địa Lý Việt Nam !!

    Tran Hung Dao

    Đây là một bài viết rất hay của nữ Kiến trúc sư Trần Thanh Vân một người đã trưởng thành và được đào tạo trong chính quyền cộng sản nhưng đã có cách nhìn cao rộng trong sáng với lòng yêu quốc gia sâu xa. Mọi chính thể đều tan biến theo thời gian, chỉ có quốc gia mãi mãi vẫn trường tồn.
    Địa mạch Việt Nam: Là một cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh.

    Nếu chúng ta dùng cây compa chấm vào điểm giữa bản đồ VN (Miền Trung) khoanh một vòng tròn chúng ta sẽ nhận ra chữ S phân định Âm Dương thật rõ ràng, đó chính là dấu hiệu của Lưỡng Nghi là khởi thủy của vũ trụ “lưỡng nghi sinh tứ trụ, tứ trụ sinh bát quái) đây chính là vùng lãnh thổ mà Người Tầu đã thèm muốn từ mấy ngàn năm qua, từ thời Cao Biền qua chiếm nước ta và trù yểm vào những long huyệt quý hiếm của Việt Nam, nếu trung cộng chiếm được vùng đất có một địa thế cấu trúc âm dương hoàn chình là Việt nam, thì trong tương lai chúng sẽ chiếm luôn thế giới.

    Đây là một bài viết rất hay những ai có quan tâm đến tiền đồ dân tộc Việt thì nên đọc bài viết này để mở rông tầm hiều biết. Tôi xin gửi lời cám ơn và ngưỡng mộ KTS Trần Thanh Vân, bài viết của chị đã nói lên bản chất thâm độc của Tầu Cộng và phân tích rõ về yếu tố địa lý phong thủy của nước Tầu và nước Việt Nam rất hay.

     Địa lý VN !

    Tôi không ngờ một KTS học lên từ miền Bắc rồi đào tạo ĐH ở Trung Cộng về nước làm việc cho chế độ CS miền Bắc bao nhiêu năm,mà KTS Trần Thanh Vân lại có một tinh thần tự học với tầm suy nghĩ cao rộng kết tinh trong đó lòng yêu nước sâu xa,thật đáng trân trọng biết bao!

    Tôi thật ngưỡng mộ chị KTS Trần Thanh Vân!

    Xin trân trọng chuyển đến quý bạn hiền 1 bài viết của chị về bản chất của bọn bành trướng Bắc Kinh và về Phong Thủy Địa thế của Việt Nam ! Rất hay và rất tâm huyết!

    TTN

    Bài này – phần đầu KTS Thanh Vân đã viết từ 2008 -có nhắc nhở bọn Lãnh Đạo khi làm Kỷ Niệm Thăng Long 2010. Cô này về Dịch Lý và Phong Thủy ( 2 kỳ thư của Cổ Trung Hoa – mà các Khoa Học Gia Tây Phương rất ngưỡng mộ – Máy Tính phát sinh từ căn bản Âm Duơng ) rất căn bản và thâm sâu – có ” lòng yêu nước ” rất đáng trân trọng. Cũng như Cô tôi tin Địa Thế của VN về Phong Thủy – duy nhất trên Thế Giới có Hình Tượng ( logo) của Âm Dương: Nếu lấy Compas để tâm điểm là Huế vẽ Vòng Tròn thì chữ S là vạch chia Âm Dương gồm Tứ Tượng : Thái Dương là phần đất liền trong đó có Thiếu Âm là Biển Hồ – Biển Đông là Thái Âm với Đảo Hải Nam là Thiếu Dương!.

     

    This is an article written by Architect Tran Thanh Van who has had a lot of experience in the Geology and Structure of the land mass in Asia, i.e. the “Phong Thuy” of China and VN, etc…. Tran Thanh Van believes the reason that China has always wanted to occupy VN is because the Chinese Government thinks that North VN with Ha Long Bay is the tail of a giant Dragon, whose head is the Peak of Himalaya Mountain Ranges. Tibet (Tay Tang) the peak of Fansipan (the Sa-Pa area) and the Northwest VN (the “Bauxit” mines) are parts of this giant Dragon. The Chinese believes that if they take over the control of the land where this Dragon lies, then they can take control of the entire world!….They are now trying to accomplish this ambition!

     

    KTS Trần Thanh Vân
    TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

    Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!

    Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”

    – “Cái gì? 55 năm?”
    – “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.

    Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ.. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.

    Sự thật và trải nghiệm

    Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Cộng mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Cộng hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.

    Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.

     

           Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953

    Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tág¡ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.

    Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn.

    Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.

     

    Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.

    Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.

    Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.

         Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt

    Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.

     

    Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Cộng thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Cộng. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Cộng. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.

    Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón T.Ư Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Cộng tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.

     

    Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa.. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì…

    Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Cộng và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?

    Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.

    Du học ở Trung Cộng

     

    Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.

    Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Cộng theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.

    Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.

    Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Cộng ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Cộng phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.

    Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậ­y tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.

    Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu.

    Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.

     

    Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”

    Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Cộng, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.

    Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Cộng rất tốt, giới trí thức Trung Cộng cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.

    Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi…

    Thời kỳ đã trưởng thành

    Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.

    Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.

    Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.

    Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với mấy chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Cộng giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.

    Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Cộng thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.

    Trung Quốc hôm nay?

    Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Cộng đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Cộng đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Cộng khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyềện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.

    Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.

    Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Cộng hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Cộng thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Cộng: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.

    Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.

    Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Cộng hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Cộng đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.

    Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.

    TÔI HIỂU GÌ VỀ TRUNG QUỐC?

    Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.

    Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.

     
    Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Cộng rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Cộng không hề được hưởng lợi.

    Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich

    Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich
                     Nước Trung Hoa hình quẻ chấn 

    Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.
    Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân.. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đã đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như  Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.

    Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao nguyên Tây Tạng, qua cao nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

    * Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).

    * Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm  ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Cộng sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).
    Cung điện Tây Tạng Potola

    Còn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?

    Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu

    Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội.. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.

    Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.

    Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á

    Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?

    Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh

    Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
    Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương 

    Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình..

    LỜI CUỐI BÀI

    Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ với Trung Cộng hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Cộng. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.

    Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?

     

    Đông dân là một sức mạnh

    Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Cộng mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.

    Trong thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.

    Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng,

    Mô hình hàng không mẫu hạm ở vũ Hán

    Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.

    Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?

      KTS Trần Thanh Vân

  • Văn

    Lòng Mẹ Bao La

    Lòng Mẹ Bao La – Nguyễn Văn Sâm

    Thể chất tôi èo uột ngay từ lúc mới ra đời nên người nuôi rất cực khổ. Ba tôi mất sớm, gánh nặng đó chuyển lên vai của má. Tôi thường bị bịnh ban cua, lưi trắng, bên trong miệng lại có đẹn nên ăn gì cũng đau rát, không muốn nhai nuốt, thường phun nhả. Những ai trông coi thường đánh tôi vì chuyện đó, nhưng má tôi thì không bao giờ, bà xuýt xoa, dỗ dành, khuyên tôi cố gắng ăn uống. 

    <!>

    Tôi mới 4, 5 tuổi, chẳng hiểu gì nhiều nhưng cảm nhận những lời ngọt ngào và cử chỉ thương mến của bà, thích cái vỗ tay của bà khi tôi cố gắng nuốt nên khoái được má đút cơm. Bà kiên nhẫn, còn tôi thì gượng đau rát. Mỗi bữa cơm là một cực hình cho cả hai má con, tốn nhiều thời giờ ít ỏi của bà, nhưng tôi chưa bao giờ thấy bà bực mình vì chuyện đó.
    Người ta nói tôi bị ban khỉ vì bịnh làm cho chưn tay tôi trở nên khẳng khiu và dài sọc, mặt mày ốm trơ xương, giống như mặt khỉ già.
    Mỗi tuần hai ngày má cõng tôi trên lưng khom khom đứng đón xe ngựa đi lên nhà thuốc Ông Tạ để được bắt mạch hốt hai thang thuốc đem về. Xe ngựa chật, ngộp, bó rọ trong lòng má, tôi thường khóc giảy khiến bà phải dỗ dành và xoa xoa lưng tôi mới cảm thấy dễ chịu mà nín khóc. Xe ngựa ngừng ở ngoài đường lớn, má lại cỏng đi vô đường đất đỏ cả một đoạn dài, lắm khi trơn trợt sau cơn mưa. Nhiều lần bà té lên té xuống nhưng lúc nào tôi cũng cảm nhận là bà che chỡ cho tôi khỏi ướt, khỏi dơ còn bà sao cũng được, nhiều khi tới nơi rồi thì sình bùn đã hơi khô khô, dính vô cái áo túi của bà từng mảng, từng mảng. Trong khi chờ đợi được kêu tới số thẻ của mình, bà từ tốn lột quăng ra xa. Phòng chờ đợi quá đông nên nóng hầm, tôi thưng đòi chạy ra sân, nhưng má tôi sợ con té, lạc đường hay bị chó cắn, bà thường giằng lại trong lòng, cam chịu sự giảy dụa, bất bình của tôi. Lúc nhỏ mình chỉ biết làm cho đã nư, lớn nên nghĩ lại, nhớ ánh mắt thương mến của bà khi nhìn tôi mà cảm động và thương má muộn màng, nghĩ là có chết cũng chẳng đền bù được.
    Vậy đó, tôi sống còn, tuy đau yếu, chậm lớn, nhỏ con, nhưng trong tim tôi chứa đầy ánh mắt bao dung và lòng thương mến bạt ngàn của má mà trời biển cũng còn nhỏ hơn. 
    Còn nhớ năm đầu đi học lớp Năm, hầu như mỗi ngày đi học tôi đều khóc, và má phải cỏng tôi tới trường, đứng lúp ló ngoài cửa lớp hèn lâu rồi mới len lén đi về. Trưa tan trường, trống chưa đánh tôi đã thấy bóng dáng má tôi với cái nón lá và cái áo bà bà quen thuộc.
    Lúc học năm thứ hai trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn thì ý định đi vào đường nghiên cứu văn học Việt Nam đã rõ nét sau khi đã sưu tập được một số tài liệu quan trọng cũng như đã khởi thảo được một vài tác giả cơ bản. Tất cả tư liệu và bản thảo đều được xếp vào một thùng giấy trước đây người ta dùng đựng sửa hộp, thời đó gọi đơn giản là thùng sửa, đêm đêm tôi lôi ra đọc đọc viết viết cần cù quên mệt mỏi. Má tôi học ít, chỉ đọc được chậm chạp những hàng chữ lớn trên báo hằng ngày mà thôi, thấy con mình quí thùng sửa giấy rách đó và say mê công việc nên bà thường yên lặng đặt kế bên con một ly nước trà đá chanh đường cũng như sẵn sàng xếp lại gọn gàng mỗi khi tôi bày binh bố trận.
    Năm đó, khi đang ngồi ở Thư Viện Quốc Gia ở đường Gia Long học bài thì nghe tin lửa cháy bên kia Cầu Ông Lãnh, khu nhà tôi ở phía đó, xóm Vĩnh Hội. Tôi lật đật kiếm đường về mà không được, các cầu đi về hướng có đám cháy đều bị ngăn chặn, đò ngang cấm không được cặp bến để cho lính chửa lửa làm việc và nhân viên công lực ngăn ngừa trộm cắp.
    Nóng ruột về tài liệu khó kiếm chắt mót bấy lâu nay, về quyển sách coi như đã hoàn thành được hơn một nữa, lòng tôi bồn chồn, lăng xăng lên xuống bên Bến Chương Dương ngó ngọn lữa mà thở dài, nhiều khi muốn cỗi áo lội qua sông nhưng thấy có nhiều nguy hiểm nên đành đứng trong đám đông bên nầy trơ mắt ngó.
    Gần sáng, khi đám cháy tàn, tôi lò mò về khu nhà cũ. Mọi thứ đều hoang tàn, mấy cây dừa xưa lã ngọn nên thơ giờ chỉ còn trơ gốc đen xì giáp mép bùn khô, buồn bã. Cầu khỉ cầu ván đi vào hư vô, ao rạch cạn cùn phơi đáy trơ vơ những góc ván ngựa nám đen ai đó trong khi quính quáng đã chùi vội xuống nước. Tôi nôn nóng tìm má thì ít mà lo cho số phận thùng sách của mình thì nhiều. Biết bao nhiêu công trình tìm tòi và suy nghĩ. Biết bao nhiêu thời gian lục lọi nằn nì. Mất nó chắc tôi bỏ cuộc luôn chuyện viết lách mới nhen nhúm đầu đời.
    Khi gặp má tôi đương ngồi đăm chiêu, mệt mõi, gương mặt lấm lem vài vệt lọ nghẹ, câu hỏi đầu tiên của thằng con là thùng sách của mình. Má tôi vui cười chỉ thùng báu vật của con mà bà đương ngồi trên đó, ý chừng để ngăn ngừa bọn hôi của đương hoành hành đâu đó. Tôi nhớ mình vì quá mừng, lính quính nên đã quên hỏi má về những vật dụng của riêng bà.
    Gần mười năm sau quyển sách đầu đời của đứa con vô tâm được in thì má nó đã đi vào nơi hằng cữu một vài năm trước. Cầm quyển sách đầu tiên thơm mùi giấy mực tôi không vui mà chỉ buồn nhớ má, mắc cở  cho thái độ của mình ngày xảy ra đám cháy. Tôi nói thầm: Má ơi. Má viết quyển sách nầy chớ không phải con! Nếu má không cứu cái thùng sửa thì ngày nay đâu có sách.. Mỗi khi cầm sách nầy lên là con nhớ hình bóng má với ly nước trà đá chanh hay cử  chỉ  chịu đựng khi dọn dẹp tài liệu  bừa bãi của con ngày trước… Con cám ơn và xin lỗi má dầu muộn màng!
    Vậy mà chẳng phải chỉ lỗi lầm đó với má tôi thôi, còn nhiều lỗi lầm khác nữa. Cũng dàng trời mây luôn. Chỉ xin đơn cử một trường hợp.
    Từ khi cưới vợ và ra ở bên nhà vợ, tôi ít khi về thăm má mình. Vợ giàu không thích về thăm má chồng nghèo nên tôi chỉ về thăm má một mình, năm khi mười họa.
    Một hôm rảnh rang, bỗng nhiên nhớ tới má, tôi lái xe hơi về xóm nhỏ thăm bà. Quẹo vô cái chợ chồm hổm tự phát đầu xóm tôi nhói tim khi thấy má ngồi trước cái ông lò than đỏ đương nướng trỡ  bánh tráng, bánh phồng. Dáng má khẳng khiu, ốm o, hốc hác. Tôi ngừng xe trước hai rỗ bánh đầy ấp của má. Má vội vã giải thích rằng bà kiếm thêm chút đỉnh, ngồi không chẳng ích gì. Đi bán cho vui, ở nhà tù túng thêm bịnh.
    Tôi thương má gần như muốn khóc, năn nỉ bà về, bỏ hết ba cái thứ lỉnh kỉnh đó đi, má bán lời bao nhiêu một ngày, con sẽ đưa cho má tiền lời một lần bằng năm bảy tháng bán. Má nói bán lời chút nào hay chút nấy, tiền con để con xài. Năn nỉ hoài má cũng không chịu về, tôi đưa tay đè nhấn bể hết hai rỗ bánh tráng nướng của bà, tôi bắt gặp ánh mắt tiếc rẻ của bà mà xót ruột. Thấy chuyện dằn co, người bán hàng kế bên khuyên má tôi nên về và hứa sẽ đem thúng mũng lại nhà chiều nay. Má tôi về nhưng nhứt định không lên xe hơi. Bà quơ cái khăn rằn choàn lên đầu, trước khi bước đi không quên ngó ngoái lại lò than nướng bánh tráng của mình.
    Má tôi vậy đó, không bao giờ đi xe hơi của con, dầu tôi năn nỉ bao nhiêu cũng vậy thôi, nhiều lắm bà chỉ rờ rờ khen xe đẹp mà từ chối lên xe với lý do đi không quen, chóng mặt, khó chịu, nếu đi rồi sẽ nhức đầu cả buổi…
    Bữa đó tôi ở nhà má, được ăn bánh tráng nướng, bánh phồng kẹo, những món tôi rất thích khi còn nhỏ mà nước mắt rưng rưng. Tôi đã bỏ bê má mình để chạy theo những công danh phù phiếm bấy lâu nay. Tôi hứa với lòng là sẽ thăm viếng má nhiều hơn. Tôi móc đưa bà tất cả số tiền có trong túi như nhiều lần trước. Má nhận với gương mặt thoáng ưu tư, ngần ngừ, không cười cười như những lần trước.
    Nhưng rồi tôi không có dịp thăm viếng má nhiều, má mất sau đó ít lâu. Anh Hai đưa tôi một gói giấy dầu cuộn tròn, mở ra mới thấy từng xấp từng xấp tiền, vẫn còn y nguyên như những lúc tôi đưa cho má mình trước đây. Phía dưới cùng của xấp tiền có tờ giấy xé ra từ tập học trò, chữ rất xấu của má: trịnh má thương con nhiều con không có lỗi gì với má hết. Má tôi viết không chấm, không phết, không viết hoa, chẳng ngay hàng nhưng tôi đọc được trong đó lòng bao la của má tôi, giờ đây kể lại chuyện nầy mà tôi vẫn còn muốn khóc.
    Chuyện đời đưa đẩy, tôi vào quân đội, vô Sư Đoàn 7 Bộ Binh, mỗi khi hành quân tôi đều vái van má tôi trước, coi như vị Bồ Tát bổn mạng của tôi. Người ta kẻ đeo bùa cà tha, kẻ mang nanh heo rừng hay ngậm răng cọp, tôi thì mang hình ảnh má mình trong tim với lời xin lỗi muộn màng. Vậy mà đạn tránh tôi nhiều lần, lúc thì trợt trên nón sắt, lúc thì tránh trái tim, chỉ xuyên qua bả vai. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Chuyện lớn là chuyện lúc tôi linh đinh trên biển mới đáng nói.
    Cho nghỉ uống miếng nước thấm giọng nghen! Nói nhiều khô cổ quá! Nhỏ tới giờ mang hình ảnh mẹ trong lòng, hôm nay xin cám ơn Dì Chưởng với Chú Hoạt đã cho tôi có dịp nói lên lòng mình. Nói mà tôi cảm thấy bóng dáng má thấp thoáng trước mặt. Nhiều khi tôi ước ao, dầu thấy rằng vô lý, là phải chi mỗi người có cả chục người má, mới thỏa được cái tình má con. Nói tóm lại, tôi thèm tình mẹ, cho đến ngày nay dầu đầu bạc cổ lai hy, tôi vẫn không hiểu hết chiều sâu trong trái tim của Mẹ.
    Trở về chuyện vượt biên.
    Năm nào đó tôi được biệt phái về lại nhiệm sở cũ là Trường Trung học nhỏ trong quận Cần Đước. Má tôi quá vảng cũng đâu được mấy năm rồi. Dạy học thì cũng thường thôi, vai trò của thầy giáo dạy Việt Văn tôi làm nhiệm vụ chuyển tải những kiến thức văn học trung thực cho học sinh chẳng liên quan vì đến chánh trị đương thời. Sau biến cố 75 thì tôi bị cho ra ngoài biên chế, không được lưu dụng vì môn dạy của mình. Giữa một đất nước mọi thứ trao đổi kinh tế đều bị cấm đoán, không việc làm có nghĩa là thiếu thốn cùng cực và bị dòm ngó nặng nề. Chứng kiến thêm những bất công hằng ngày chung quanh, tôi phải bỏ đi thôi nếu không thì có ngày mang khổ lụy vì phản ứng trước những bất công.
    Và tôi vượt biên. Bốn ngày linh đinh trên biển, một đêm kia trong khi phần đông khách đi tàu đương ngồi ngủ chồm hổm dưới khoang tàu tối đen như mực thì một đóm lửa của cụm nhang do chủ tàu chuyền tay cho khách với giọng ai đó vừa ai oán vừa chịu đựng:
    “Bà con cầm một cây nhang cho gia đình mình, còn bao nhiêu chuyển cho người kế bên nha. Ai đạo Phật thì cầu Phật Bà, ai đạo Chúa thì cầu Đức Mẹ, tàu mình bị vô nước, tối quá không thấy chỗ lủng. Tàu sẽ chìm trong vài giờ nữa…”
    Có tiếng ai đó nhẹ nhàng nhưng trong hoàn cảnh nầy nghe hơi bi hài:
    “Còn tôi đạo Cao Đài thì sao?”
    “Thì vái Phật Mẫu!” Tôi vẫn không biết tại sao mình buột miệng mau như vậy. Lại còn nói thêm: “Tên gọi thế nào thì  cũng chỉ là một thôi, cũng là tạo thành bằng yếu tố Tử Bi. Từ Bi mà, bà con biết đó!”
    Tôi tiếp nhận cụm nhang, lấy riêng cho mình một cây, trao cho vợ một cây, còn bao nhiêu đưa cho người ngồi kế bên. Nước lên ướt đít lạnh lạnh. Tôi vái Phật Bà, tôi van vong hồn má tôi cho chúng tôi người lớn chết hết cũng được, không ân hận gì, nhưng các con tôi và tất cả con nít khác trên tàu xin được cứu sống, chúng vô tội, chưa từng hưởng điều sung sướng nào trên cỏi đời nầy. Nước từ từ ngập tới háng, tôi cố gắng ngồi nhón chưn cho thân mình cao hơn, buồn ngủ quá, tôi thiêm thiếp trong mơ màng.
    Thời gian trôi qua, trong đêm tĩnh lặng chỉ có tiếng gió biển rít trong không gian, tới một lúc tôi nghe văng vẳng chủ tàu nói  mơ hồ là tìm được lổ lủng rồi, yêu cầu bà con có áo quần dư chuyển sang phía bánh lái tàu để bịt lổ. Tôi không còn sức để mở mắt, mà dầu có mở lớn mắt cũng không thấy gì, hầm tàu tối đen như đêm ba mươi, thỉnh thoảng cảm thấy ai đó chuyển quần áo đụng vô mặt mình hôi hám dơ dáy. Trong mơ hồ tôi thấy hình ảnh Đức Phật Bà Quán Thế Âm và gương mặt vui vui của má tôi. Ánh mắt hai người đều hiền từ. Rồi giống như trong kỷ thuật điện ảnh, hình ảnh hai bà từ từ chồng khít lên nhau để rồi cũng một bức hình đó khi thì hiện lên má tôi, khi thì hiện lên đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
    Tôi hứa với lòng là sẽ thờ Phật Bà khi sống sót, lập một cái trang thờ mẹ và kỵ giỗ long trọng hằng năm. Vậy mà suốt thời gian hơn hai mươi năm sống ở đây tôi mãi chạy theo công ăn việc làm lại không làm được cái trang thờ dầu chỉ là một tấm ván nhỏ đóng lên tường có dựng hình mẹ và một lư hương. 
    Đứa con trai tôi mua nhà trước khi cưới vợ, hôm đám cưới nó dọn hình ảnh ba má tôi lên chừng độ hơn hai giờ đồng hồ rồi ngay sau khi đàng gái vừa ra về khỏi cửa nó với vợ mới cưới liền đem hình ông bà nội xuống. Nhà là nhà của nó, tôi không thể mở miệng nêu ý kiến gì, nói ra thêm dư lời mà chắc chắn không kết quả. Chúng sẽ xúm lại công kích tôi vụ hình thức, tôi còn quá Việt Nam nên chú ý tới chuyện nhỏ mọn, chuyện tào lao. Nhà của tôi còn bị chê bày biện sao nhà quê giống Việt Nam ruộng, huống chi nhà nó. Tôi chiêm bao thấy má mình nhiều lần nhưng chưa lần nào nghe má tôi nhắc đến lời tôi hứa lập trang thờ.
    Khi vô sống ở nhà Dưỡng Lão nầy, ngồi buồn tôi nhớ hình ảnh chồng lấp của má và Đức Quán Thế Âm, tôi nghiệm ra rằng má ta là Đức Bồ Tát của ta, là sự Từ Bi rót lên đời ta ngay từ lúc mới sơ sanh để ta sống sót. Phật Bà nói chung là má của tất cả mọi người. Má của người nào là Phật Bà mà chỉ có đứa con mới cảm nhận được thôi.
    Gần đất xa trời tôi mới cảm nghiệm được chơn lý đơn giản nầy. Tiếc quá!
    Tiếc nhưng biết làm sao hơn, nhân loại sanh ra để va vướng vào những mê lầm muôn thuở mà dầu ta có học xong bài học và được phép mầu làm cho trẻ lại nhiều lần đi nữa thì cũng mắc mê lầm lại y chang như cũ, cũng hờ hững và không thấu được lòng mẹ bao la…..
  • Hồi ký

    Lời cám ơn chân tình của Yên Sơn

    Lời cám ơn chân tình của Yên Sơn, gặp cô thầy Nguyễn Thanh Liêm.

    Inline image 2

    * Buổi hội ngộ sau 4 ngày thì GS Liêm ra đi. Trích một phần bài bút chuyến viếng thăm Orange County, California vừa qua gửi đến tất cả bằng hữu như lời cám ơn chân tình của thi sĩ Yên Sơn.
    …Từ giã anh chị Vũ Ngọc Thạch, từ giã tân Linh Mục Dòng Tên Vũ Ngọc Dzao, từ giã Thánh đường Đại học Loyola Marymount, Los Angeles… chúng tôi vội vã đến cái hẹn 1g chiều ở nhà hàng Hồng Ân trên đường Westminster để hội ngộ với một số anh chị em văn nghệ sĩ quen biết đã nhiều năm, do bạn văn Trần Việt Hải và Khiếu Như Long tổ chức.
     
    1:30 trưa tới nơi đã thấy một nhóm đang chụp hình, cười đùa rôm rả. Thấy có vợ chồng Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, tôi cảm động đến chào Thầy. Đây là lần thứ hai tôi gặp Thầy (lần đầu gặp Thầy trong Hội Ngộ Liên Trường Trung Học Quảng Ngãi ở Washington DC 2013). So với lần trước, Thầy trông có vẻ gầy ốm và dĩ nhiên già hơn nhiều. Với sức khoẻ như vậy mà Thầy Cô cũng có mặt vui vẻ với anh chị em thật là đáng trân trọng. Trong suốt buổi gặp gỡ, Thầy chỉ ngồi cười nhiều và vỗ tay tán thưởng cùng với mọi người. Theo đề nghị của Việt Hải, tôi đặc biệt hát tặng Thầy một câu Vọng cổ của 6 câu “Đêm Mộng Hồ Tây”. Câu này không có gì đặc biệt chỉ là nhớ đâu hát đó cho vui chứ đâu có ai ngờ đó là câu vọng cổ cuối cùng Thầy nghe được trước khi giã biệt cõi đời!
    Inline image 6
    Inline image 7
    Viết đến đây bỗng dưng xúc động, ngồi một phút lặng yên tưởng nhớ đến Thầy. Dạ thưa Thầy, dù em không có may mắn được học với Thầy, nhưng tiếng thơm của Thầy được sách vở và người đời truyền tụng khắp cả Miền Nam Việt Nam; trong nhiều thập niên Thầy đã dày công đóng góp cho một nền giáo dục của VNCH vô cùng tốt đẹp đầy nhân bản và khai phóng. Em cảm tạ tình nghĩa của Thầy đối với lũ hậu bối chúng em; cảm tạ Thầy đã không ngại nắng gió hôm nay đến chung vui với tụi em trong bầu không khí thân tình. Và em cũng không ngờ, em vô tình hát tặng Thầy Cô bản Thư Tình Cuối Mùa Thu của Phan Huỳnh Điểu khi khi nhớ lại bức tranh Cô dìu Thầy ra xe về trong chiều ly biệt, “…Tình ta như hàng cây đã qua mùa bão gió. Tình ta như dòng sông đã yên ngày thác lũ. Thời gian như ngọn gió mùa đi cùng tháng năm, tuổi theo mùa đi mãi chỉ còn anh và em. Chỉ còn anh và em cùng tình yêu ở lại…”
     
    Khi chúng tôi tới nhà hàng, ngoài Thầy Cô Nguyễn Thanh Liên, thấy có khoảng mười mấy anh chị em, hầu hết đã quen biết như: Khiếu Như Long, Trần Việt Hải, Nhược Thu, Cò Tuấn và hai cô nương, chị Hồng Vũ Lan Nhi lúc nào cũng tươi vui, chị Bích Huyền vẫn còn khá nhiều nét yêu kiều, Dương Viết Điền, Trịnh Thanh Thuỷ, Quỳnh Hương; bạn quen nhưng mới gặp lần đầu: anh Trần Mạnh Chi, Ngọc Quỳnh, Lâm Dung, chị Gina Nga (phu nhân NS Lê Trọng Nguyễn), nha sĩ Kim Loan, anh chị Huệ, Huỳnh Anh, Băng Tâm, phó nhòm vô cùng dễ thương Nguyễn Thiều Minh, nhạc sĩ keyboard thiên tài David Tòng, anh Thiên Đức… rồi từ từ thêm nhiều người khác đến gồm có anh Đào Ngọc Nhuận, ông bạn hai quần Đồng Văn… Nếu thiếu ai cho tôi xin lỗi nha.
    Dù là bạn cũ, bạn mới chúng tôi cũng rất trân trọng tình nghĩa bạn bè. Một lần nữa, xin cùng với các bạn, đốt nén hương lòng tưởng niệm đến Thầy Nguyễn Thanh Liêm, chúc Cô Phương nhiều nghị lực để phấn đấu trong những tháng năm cô đơn sắp tới; xin chân thành cảm tạ Bạn Khiếu Như Long, bạn Việt Hải, không có hai bạn chắc chắn chúng ta không có buổi hội ngộ thân thương và mang nhiều kỷ niệm này.
     
    Yên Sơn
    Kingwood, 25/8/2016.
  • Video

    Sóng Gió Biển Đông

     

    Diễn gỉa Phó chủ tịch ngoại vụ Văn Thơ Lạc Việt, TS Nguyễn Hồng Dzũng.
    Thuyết trình về Sóng Gío Biển Đông tại Câu Lạc Bộ/Báo Chí/Mây Bốn Phương
    Bắc California.
    Số 730 S. 2th Street San Jose CA 95122.
    Lúc 1 PM November 14, 2015

  • Video

    Mạn Đàm Tryuyện Kiều Phần 3

    VTLV Mạn đàm truyện Kiều sẽ còn tiếp tục….
    Xin quý vị đón xem tại chương trình TV Dân Sin & ViệtToday
    chanel 26.5 lúc 3:00 PM cách tuần vào thứ sáu.

    Kính chú quý vị luôn vui, khỏe và an bình.
    Nhóm thực hiên Chinh Nguyên – Lê Tuấn và TS Hồng Dzũng.

     

  • Video

    Mạn đàm truyện kiều phần 2


    VTLV Mạn đàm truyện Kiều sẽ còn tiếp tục….
    Xin quý vị đón xem tại chương trình TV Dân Sin & ViệtToday
    chanel 26.5 lúc 3:00 PM cách tuần vào thứ sáu.

    Kính chú quý vị luôn vui, khỏe và an bình.
    Nhóm thực hiên Chinh Nguyên – Lê Tuấn và TS Hồng Dzũng.

  • Tin Văn Thơ Lạc Việt

    Thông Báo Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016

    Dầu Thư VTLV

    Thông Báo Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016


    Nhằm mục đích bảo tồn và phát triển văn học dân tộc nơi hải ngọai, đồng thời cũng nhằm khuyến khích tinh thần sáng tác của mọi tầng lớp người Việt yêu thích văn thơ. Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt xin trân trọng thông báo đến đến quý vị, cuộc thi Truyện ngắn, và Thơ của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt lấy tên là Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016.

     

    1. Nội dung: Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016 không hạn chế đề tài, tuy nhiên ưu tiên những tác phẩm viết về: Tình yêu quê hương, Ca ngợi lòng ái quốc đang nổi lên trong nước bằng những cuộc biểu tình vừa qua, để lật đổ chế độ Cộng Sản đảng trị, và chống đối Trung Công xâm lăng lãnh thổ.
      Không chấp nhận các bài viết đề cao hoặc tuyên truyền cho Cộng Sản, không phỉ báng đoàn thể hay cá nhân trong cộng đồng.
    2. Điều kiện dự thi:
      2A/ Tất cả mọi người Việt không kể tuối, sống trong, và ngoài nước đều có quyền dự thi. Một người có thể dự thi cả hai bộ môn văn và thơ ,

    2B/ Mỗi người được gửi hai truyện ngắn tối đa, mỗi truyện năm trang đánh máy, và thơ tối đa ba bài, mỗi bài không quá 28 câu. (Nếu bài thơ dài quá giới hạn 28 câu sẽ bị loại)
    2C/ Tác phẩm dự thi chưa hề công bố trên bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng, hoặc ấn phẩm nào. Trong thời gian cuộc thi diễn ra, các tác phẩm dự thi không được công bố trên các tuyển tập và báo chí. Trừ trường hợp tác giả dự thi đề nghị được rút tác phẩm khỏi cuộc thi.

    1. Điều kiện gởi bài:

    3A/ Bản thảo được đánh máy rõ ràng gởi qua e-mail,
    3B/ Dùng Unicode – Font chữ Time New Roman-12, và không trình bày khác lạ. (Nếu có trình bày khác lạ sẽ bị loại)
    3D/ Không nhận bài viết tay, hoặc bài đánh máy trên giấy gởi qua bưu điện.
    3E/ Bài gửi qua e-mail về xin ghi kèm địa chỉ, email, số điện thoại. Lý lịch kèm theo một tấm hình (Phần này sẽ được dùng để in Tuyển Tập nếu có thể.)
    Các tác phẩm dự thi sẽ được chọn đăng trên báo chí Việt ngữ vùng Vịnh, và web site VTLV.
    3F/ VTLV giữ bản quyền những bài trúng giải, Ban tổ chức không trả lại bản thảo.
    3G/ Trong trường hợp VTLV dự trù in Tuyển Tập Đặc Biệt giải thi Văn Thơ Lạc Việt sẽ thông báo sau tới các tác giả dự thi về vấn đề tài trợ in ấn phí.

    1. Giải thưởng: Giải nhất, nhì, và ba đối với tác gỉa trên 20 tuổi.
      Giá trị giải thưởng cho mỗi bộ môn văn và thơ như sau:
      Giải Nhất : $500.00 US
      Giải Nhì : $300.00 US
      Giải Ba : $200.00 US
    2. Thời gian: Bắt đầu nhận tác phẩm dự thi từ tháng 03 năm 2016, hạn cuối cùng là ngày 30 tháng 10 năm 2016. Công Bố kết quả tháng 10 năm 2016 phát giải thưởng vào tháng 11, năm 2016.5- Gửi Tác Phẩm:
      5A/ Tác phẩm gởi qua địa chỉ email giaivantholacviet@gmail.com Phần lý lịch, hình cá nhân : Ghi rõ tên các tác phẩm dự thi dưới phần lý lịch.
      Ban Tổ Chức dành quyền loại bỏ những tác phẩm vi phạm thuần phong mỹ tục hoặc gây chia rẽ hận thù.
      Ban Điều Hành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, tác giả đã trúng giải VTLV không được dự thi.

    Muốn biết thêm chi tiết và gởi bài xin liên lạc :
    Nhà thơ : Đông Anh : donganhndt@gmail.com, (408) 896-0158.
    Nhà văn : Chinh Nguyên: cnchinhnguyen7@gmail.com, (669) 279-2532.
    Nhà báo: Lê Văn Hải: khongquanlevanhai@gmail.com, (408) 365-2947

    Nhà văn : Thanh Xuân : sueannec@hotmail.com (408) 679-1400
    Nhà văn Thai NC : thainc2013@gmail.com  (408) 891-0991

    Ghi chú :
    Để việc chấm thi được công bằng BDH/VTLV sẽ thực hiện như sau :
    1/ Không công bố ban giám khảo trước ngày công bố kết quả trúng giải.
    2/ Xóa bỏ tên tác giả trên tác phẩm và đánh dấu mật mã cho mổi tác giả trên mỗi tác phẩm.
    3/ Sau khi điểm chấm từ các quí vị giám khảo gởi về, Ban Điều Hành làm tổng kết trung bình cộng để thấy tác phẩm nào cao điểm.
    4/ BDH sẽ bỏ tên tác giả trở lại cho mỗi tác phẩm để biết ai trúng giải.
    5/ Báo cáo với quí vị giám khảo kết quả giải thi Văn Thơ Lạc Việt năm 2016.
    6/ Thông báo trên web Văn Thơ Lạc Việt và Facebook kết quả giải thi Văn Thơ Lạc Việt năm 2016,
    7/ Dự trù ngày phát giải.
    8/ Liên lạc với quí vị giám khảo và tác giả trúng giải để thông báo về ngày phát giải Văn Thơ Lạc Việt năm 2016.
    San jose, ngày 20 tháng 05 năm 2016
    Chủ tịch Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
    Chinh Nguyên

    stampVTLV

  • Chưa được phân loại

    Mục đích của Văn Thơ Lạc Việt

    promotion

    KÍNH CHÀO QUÍ VỊ

    Không thể quan niệm một tập thể con người không có tiếng nói. Khi chúng ta ra khỏi nước, di sản quí giá nhất mà chúng ta có thể mang theo là cái thứ tiếng nói nhân vị Việt tộc thuần nhất. Nếu ở lại chúng ta sẽ phải từ bỏ để nói thứ ngôn ngữ chủ nghĩa xã hội, trong đó các giá trị quen thuộc của đất nước lâu đời hoàn toàn bị xoá bỏ.
    Nhờ tiếng nói chúng ta mang theo có khuynh hướng tự do, yêu thương và  bình đẳng mới có các cộng đồng Việt Nam tị nạn, sinh hoạt phồn thịnh như ta thấy ngày nay.
    Cái tiếng nói bị ruồng bỏ ngay trên quê hương mình đã xuất hiện khi ngoại xâm bắt đầu gậm nhấm những thực thể ruộng dất, biển Đông của quê hương ta qua 4 tốt và 16 chữ vàng, mà chính thể hiện thời coi như kim chỉ nam để đi tới sự bán nước, và hủy diệt dân tộc.
    Nhưng ngôn ngữ Việt được bảo tồn hầu hết tại các nước tự do trên thế giới, qua hàng trăm tờ báo, đài phát thanh, phát hình, các trang web và blog trên mạng toàn cầu, hầu là chất keo cho người Việt đoàn kết nắm lấy tay nhau để vượt qua vấn nạn suy diệt đã và đang xẩy ra trong quốc nội.
    Bỏ qua những náo nhiệt đáng ngờ của các người cộng sản luôn lớn tiếng mị dân đòi tự do dân chủ ảo, tiếng Việt truyền thống đang được phục sinh trong đời sống dân gian trong nước, và sự thành tâm phục hưng ngôn ngữ của giới trẻ, qua những bài viết được gởi qua Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt để dự giải Văn Thơ Lạc Việt hàng năm, và cũng có nhiều tác giả trúng giaỉ.
    Giấc mơ của Văn Thơ Lạc Việt là trong tương lai rất gần, chính quốc và người Việt hải ngoại cùng nói một thứ ngôn ngữ, trong đó các giá trị nhân vị của tổ tiên đuọc phục hồi, các quyền tự do căn bản của dân được tôn trọng.
    Đó là khởi điểm cho cuộc hoà giải thống nhất dân tộc thật sự.

    Administrator
    Chủ tịch VTLV
    Chinh Nguyên

    stampVTLV

  • Video

    Mạn đàm truyện kiều

     

    VTLV Mạn đàm truyện Kiều sẽ còn tiếp tục….
    Xin quý vị đón xem tại chương trình TV Dân Sin & ViệtToday
    chanel 26.5 lúc 3:00 PM cách tuần vào thứ sáu.

    Kính chú quý vị luôn vui, khỏe và an bình.
    Nhóm thực hiên Chinh Nguyên – Lê Tuấn và TS Hồng Dzũng.