• Phê Bình

    Nhà văn phương Tây nói về phê bình văn học

    I. Phê bình phương Tây đã có truyền thống từ thời cổ đại. Nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, nhất là sang thế kỷ XX, tính chất hiện đại của thuật ngữ mới được biết đến cùng với các tên tuổi phê bình lớn của phương Tây.

    Từ nguyên của “phê bình” (“kritikos”- Hilạp, “criticus” – Latin), nghĩa là phán xét. Sang các tiếng Pháp và Anh, viết hơi khác: “critique”, “critic”, nhưng tiền tố của nó vẫn được lưu giữ cũng như cách phát âm. Trong tiếng Pháp, từ này mang các nghĩa: xét, xét xử, phán xét, làm trọng tài, phán đoán, nhận định, đánh giá, tưởng tượng.

    Dưới đây, tôi xin trích dịch một số ý kiến về phê bình văn học của các nhà văn phương Tây lần lượt từ thế kỷ XVII đến nay. Trong đó có cả các nhà khoa học, triết học, vi sinh học, tuy có khi chỉ trong lĩnh vực của họ; nhưng như vậy càng cho thấy tầm quan trọng và cần thiết của phê bình nói chung. Sau cùng tôi sẽ rút ra một vài nhận xét.

    II. Các ý kiến:

    1.“Bạn hãy sợ lời chỉ trích của công chúng đối với các vần thơ của bạn,/Chính bạn hãy là một nhà phê bình nghiêm khắc” (Boileau, 1636-1711)

    2.“Thú vui của sự phê bình tước mất khỏi chúng ta thú vui được cảm động một cách sinh động từ các kiệt tác” (Jean de La Bruyère, 1645-1696) 

    3.“Phê bình thì dễ, còn nghệ thuật mới khó” (Destouches, 1680-1754)

    4.“Ở Pháp, ngày thứ nhất dành cho sự hâm mộ, ngày thứ hai cho phê bình, còn ngày thứ ba cho sự thờ ơ” (Delaharpe, 1739-1803)

    5.“Bạn có biết các nhà phê bình là ai không? Những người bị mắc cạn (thất bại) trong văn học và nghệ thuật.” (Benjamin Disraeli, 1804-1881)

    6.“Chủ nghĩa hoài nghi khôn ngoan là thuộc tính đầu tiên của một nhà phê bình giỏi” (James Russell Lowell, 1819-1891)

    7.“Có lẽ không có địa ngục cho các tác giả ở thế giới khác – họ đã phải chịu đựng các nhà phê bình và các ông chủ xuất bản quá nhiều ở thế giới này rồi” (Christian N. Bovee, 1820-1904)

    8.“Mọi nhà thơ lớn đều trở thành, một cách tự nhiên, định mệnh, những nhà phê bình” (Baudelaire, 1821-1867)

    9.“Người ta làm phê bình khi người ta không thể làm nghệ thuật, cũng như người ta làm mật thám khi người ta không thể làm người lính” (Flaubert, 1821-1880)

    10.“Bạn hãy có niềm tôn thờ trí óc phê bình” (Louis Pasteur, 1822-1895)

    11.“Nhà phê bình giỏi là người kể lại các cuộc phiêu lưu của tâm hồn mình ở trung tâm của các kiệt tác” (A.France, 1844-1924)

    12.“Những gì chúng ta đang làm chẳng bao giờ được hiểu, và chỉ luôn luôn được đón nhận bởi ca ngợi hoặc phê bình” (Friedrich Nietzsche, 1844- 1900)

    13.“Phê bình chỉ là nghệ thuật hưởng thụ sách” (Jules Lemaitre, 1853-1914)

    14.“Hãy nhân đạo: nếu bạn có đứa con trai không biết phân biệt màu sắc, thì hãy thà làm cho nó trở thành một nhà phê bình nghệ thuật còn hơn làm anh kỹ thuật viên đường sắt” (Remy de Gourmont, 1858-1915)

    15.“Có ba loại nhà phê bình: những nhà phê bình quan trọng; những nhà phê bình ít quan trọng hơn; những nhà phê bình chả có quan trọng chút nào. Hai loại sau cùng không tồn tại: mọi nhà phê bình đều quan trọng” (Erik Satie, 1866-1925)

    16.“Nhà văn cổ điển là nhà văn mang sự phê bình về chính mình, và kết hợp nó một cách sâu kín với công việc của anh ta” (Paul Valéry, 1871-1945)

    17.“Thật bất hạnh cho một nhà phê bình có bao nhiêu vận may để sai lầm trong khi là kẻ khinh suất thì lại có bấy nhiêu may mắn trong khi là người cẩn trọng” (A.Billy, 1882-1971)

    18.“Nhại và biếm họa là những thứ buốt nhọn nhất của các nhà phê bình” (Aldous Huxley, 1894-1963)

    19.“Nhà phê bình cần phải, về mặt văn học, là một dạng của khoa sư phạm về niềm hứng thú” (L.Aragon, 1897-1982)

    20.“Nhà phê bình, đó chính là kẻ khổ sai chung thân” (L.Aragon, 1897-1982)

    III. Đọc những ý kiến trên đây, ta đã thấy, cái nhìn của các nhà văn phương Tây, theo thời gian, dần thông cảm hơn với các nhà phê bình văn học. Còn trước đó, ngay cả Flaubert (số 9) cũng không thoát khỏi ý nghĩ cay đắng, nghiệt ngã (cùng một số ý kiến khác coi thường, cả khinh miệt: 3, 4, 5, 7, 14) đối với nhà phê bình (gợi ta nhớ đến “huyền thoại” của Nguyễn Tuân – không biết có bao nhiêu phần trăm sự thật (?) – là khi chết muốn chôn theo một thằng phê bình); trong khi cùng thời với Flaubert, nhà vi sinh học Pasteur (10) lại có ý kiến tích cực, bên cạnh ý kiến của nhà triết học Nietzsche (12) tỏ ra trông cậy, tin tưởng nhiều ở phê bình; nhất là Baudelaire (8), người đã nhìn thấy mối quan hệ “hai trong một” giữa nhà thơ và nhà phê bình. Những ý kiến càng về sau (từ 15 trở đi) càng trở nên thông cảm, đánh giá đúng hơn vai trò của nhà phê bình đối với văn học; bên cạnh đó là những ý kiến khuyên răn.

    Ngày nay, phê bình phương Tây đã có nhiều biến đổi về chất và thành tựu của nó có thể sánh ngang với sáng tác, như đã có nhiều nhận định của các chuyên gia phương Tây. Phê bình đã thực sự trở thành một khoa học theo nghĩa rộng của thuật ngữ. Phê bình văn học, theo R. Barthes, là một siêu ngôn ngữ hay ngôn ngữ bậc hai thao tác trên ngôn ngữ bậc nhất trong hệ thống ngữ nghĩa đặc biệt của tác phẩm văn học. Và vai trò quan trọng của nhà phê bình đối với sự phát triển của một nền văn học là không còn phải bàn cãi.  

    Hà Nội, tháng 6 năm 2008

  • Phê Bình

    LỜI BẠT : KINH VÔ THƯỜNG

    LỜI BẠT : KINH VÔ THƯỜNG
     
     
    Nhà thơ Võ Thạnh Văn đưa cho tôi tập sách “KINH VÔ THƯỜNG” và nhã ý nhờ tôi viết LỜI BẠT  cho tập sách của ông. Cầm tập sách trên tay tôi tự nhũ: làm sao mình có thể viết NHẬN ĐỊNH nổi cho một tác phẩm loại kinh điển  như thế này? Bởi tập sách “ KINH VÔ THƯỜNG” của tác giả Võ Thành Văn gồm có 2 quyển THƯỢNG và HẠ và trong hai quyển này chứa khoảng 10 tập thơ mang tên Cát Bụi theo số thứ tự  từ 1 đến 10. Mỗi tập thơ  Cát Bụi như vậy, chứa một ngàn câu thơ theo thể LỤC BÁT. Như thế toàn  bộ tập sách KINH VÔ THƯỜNG chứa 10 ngàn  câu . Nếu tính theo chữ gồm có 70 chục ngàn chữ . Tôi nói với tác giả, việc viết LỜI BẠT cho một tác phẩm lớn như thế này và nhất là thuộc  loại sách kinh điển, e rằng tôi không thể đáp ứng yêu cầu  mong muốn của tác giả, vì công việc này có tính chọn lựa thường dành riêng cho vị thức giả hoặc các bậc cao thâm . Nhưng Võ Thành Văn không cho ý kiến của tôi là đúng. Ông bảo tôi có thể viết nhận định được, lại nữa chỉ viết LỜI BẠT cho một tập thơ Cát Bụi trong 10 tập mà thôi. Tôi biết không thể thối thóat trước tấm chân thành của bạn hữu cũng là thi hữu nên tôi nhận lời. Tôi chọn tập thơ Cát Bụi 2 để làm chủ đề cho LỜI BẠT theo yêu cầu.
    Đọc qua tập thơ Cát Bụi 2 từ câu 251 đến câu 500, trên phương diện hình thức chúng ta thấy : tác giả Võ  Thạnh Văn không những là một nhà thơ can đảm lại  còn tài tình nữa, vì dám chonï thể lọai LỤC BÁT để viết về thơ KINH ĐIỂN. Với phương thức chọn lựa này chắc chắn  tác giả phải  thật hiểu rõ về vần, điệu và tiết tấu… của thể thơ này mới có quyết định như vậy, vì thể thơ LỤC BÁT, tuy dễ gieo vần, nhưng vì gần gũi với Ca dao và Vè nên lắm lúc nhiều nhà thơ sử dụng thể lọai này, bài thơ của họ có những âm điệu gần giống như một bài Ca dao hay Vè, tạo cho người đọc nhiều nhàm chán. Nhưng với tác giả Võ Thành Văn khi áp dụng thể loại LỤC BÁT cho việc viết thơ  KINH ĐIỂN, ông đã thành công một cách nhất định. Trong 10 tập thơ  Cát Bụi. Ngoài sự am hiểu về vần , điệu , tiết tấu … ông còn chứng tỏ khả năng hiểu biết bất tận của mình về bố cục của thể thơ này. Ông dùng cú pháp và ngôn ngữ  trôi chảy, ổn thỏa. Đặc biệt trong tập thơ Cát Bụi 2 , tác giả Võ Thành Văn cho người đọc thấy nghệ thuật sử dụng vần , điệu một cách tài tình. Có những đọan thơ gần như là yểu vận mà ông vẫn gieo vần một cách mạch lạc, rõ ràng, như trong đọan thơ:
     
    “ Cát đi vấp bóng hoàng hôn
       Bụi bay rã cánh, nậm hồn cõi xa
       Về đây bện cõ lợp nhà
       Ngắm chân đá vựng mây là đà bay”
    Hay :
    “Gió mang phún thạch ra đi
      Người về nhân thế thị phị bụi làn
      Ta về củi mục non ngàn
      Tình hâm. Tro lạnh. Đêm tàn. Rượu vơi.”
     
    Cũng trong hình thức, tác giả Võ Thạnh Văn không phải vô tình cho người đọc thấy sự đặc thù  trong cách  sử dụng thể thơ LỤC BÁT trong “ KINH VÔ THƯỜNG” của ông. Mở bất cứ tập thơ Cát Bụi nào củaVõ Thạnh Văn chúng ta đều thấy phần lớn những câu 6 hay 8 đều được trình bày ngắt đọan bởi một dấu chấm,  nhưng ý nghĩa  của câu văn  tác giả muốn trình bày vẫn rõ nghĩa. Làm thơ Lục Bát lối này có phải chăng đó là một thể thức mới một kiểu lập dị riêng biệt  mà chỉ có tác giả Võ Thạnh Văn mới  là người ưu tiên thực hiện?  Chúng ta hãy xem đọan thơ sau đây để thấy sự sáng tạo trong thơ Lục Bát của tác giả Võ Thạnh Văn.
     
     “Mưa sa . Bão Táp. Sóng nhồi
       Trăm năm (ngụp lặn mé đời) phồn hoa
       Cuối mùa. Thác Lọan. Kinh qua
       Bóng ai ( chao đảo sương tà) rơi nghiêng.”
    Hoặc:
    “ Cát nào. Không trước. Không sau
       Không sinh. Không diệt. Không dày. Không thưa.
       Bụi nào . Không thiếu. Không thừa.
       Không biến. Không hóa. Không trưa. Không chiều.”
     
    Về nội dung, 10 tập thơ Cát Bụi trong KINH VÔ THƯỜNG, nhất là tập Cát Bụi 2, chúng ta thấy Võ Thành Văn là một nhà thơ luôn sáng tạo, ngoài can đảm , tài tình, ông cũng còn là một nhà mô phạm, một nhà tu có một kiến thức triết học và thần học thuộc cấp thượng thừa. Tác giả đã thấu triệt nhân sinh quan của Phật giáo về căn nguyên của con người theo lẽ tuần hoàn của tạo hóa , “ Con người từ đâu mà sinh ra, chết sẽ đi về đâu, có còn vì đâu hay mất hẵn ?”.  Trả lời câu hỏi này ông viết:
     
    “ Người từ ( cát bụi) đầu thai.
       Nghe kinh. Hóa cội hoàng mai. Đền Thần
       Ta từ (sõi) vụn liều thân
       Ngẩn ngơ. Trôi giạt. Phù trầm. Hợp  ly.
     
     Tác giả khẳng định con người từ cát bụi từ đất mà có, sự khẳng định có tính khoa học đó của tác giả  chúng ta thấy phù họp với thuyết tạo vật của Đức Chúa Giê su, người cải cách một tôn giáo cổ ở Do Thái . Đạo ấy tiêu biểu Đức Chúa Trời là một vị duy nhất sinh ra Trời- Đất và muôn vật.  Theo bộ Tân Ước, Cựu Ước thì vũ trụ  này trước đây là một khoảng mênh mông , mù mịt. Nhờ tài năng và huyền phép của Đức Chúa Trời , trong 7 ngày Ngài tạo thành mặt Trời, mặt Trăng, Tinh tú, Đất, Nước, Núi , Sông, Cây Cối , Người và Vật. Cùng trong 7 ngày ấy, Ngài lấy chút đất hà hơi thành ra ông Adam, đồng thời lấy chút đất khác cùng mấy dẻ xương sườn  của ông Adam , hà hơi vào thành ra bà Eve. Hai người lấy nhau , sinh xuống cõi trần  làm thủy tổ loài người, sau khi hai ông bà đã phạm vào trái cấm của Chúa. Từ đó con cháu  loài người đều bị bó buộc trọng tội tổ tông truyền . Ai biết tôn trọng, kính thờ, vâng lời Chúa sẽ được lên thiên đàng, đời đời sung sướng , trái lại sẽ phải đọa đầy xuống địa ngục.
    Bởi chân con người là Cát Bụi nên phải trở về Cát Bụi . “Đời sinh ta  ra ta là Cát. Đời đưa ta đi , ta về đất…. Và anh đã về , một chiều anh đã về quê.”( Huyền Thoại Người Mang Tên Quốc của Phạm Duy) . Cho nên từ trạng thái vật chất cát bụi  trở thành người bởi hóa kiếp, nghĩa là không mãi mai ở yên trong trạng thái nhất định nào , luôn chuyển hóa và thay đổi hình dạng . Từ trạng thái hình thành , cao thấp, to, nhỏ, tan rã , những giai đoạn thay đổi đó tác giả cho là “ Vô thường” và theo Phật gọi là định luật : Thành, Trụ , Họai Không.
    Con người là thực thể hiện hữu trong thế gian nên cũng không thóat khỏi sự biến đổi , hư hoại nên không tránh khỏi định luật vô thường, lúc có lúc không.
     
     “ Tay vo (hạt cát) vô thường
        Miên man hoa sóng . Miên trường sắc không
        Bọt bèo ( xô giạt) nhánh sông
        Nhấp nhô thuyền đậu. Ngùi trông thuyền về.”
     
    Ngoài những kiến thức thâm thúy triết lý về kiếp sống tạm bợ của con người trên cõi thế gian, Võ Thạnh Văn còn chứng minh cho người đọc thấy khả năng uyên bác của ông về thuyết Luân Hồi  của Đạo Phật . Được sinh ra làm người con người phải tu chuyên và trải qua nhiều kiếp và nó luôn gắn liền với thuyết nhân quả và nghiệp quả, nghiệt oan.
     
    “ Tự thân (hạt bụi) nhuốm sầu
       Tìm về ( với cát nối cầu) nghiệt oan
     
    Đạo Phật xem việc sống chết là một vấn đề quan trọng , làm nhân loại luôn thắc mắc và băn khoăn. Và từ sự băn khoăn đó nên có nhiều quan niệm về vấn đề này.  Thuyết chấp đọan cho rằng, loài người cũng như vật chất, chết là mất hẳn không còn gì sau đó: “là cát bụi , con người trở về cát bụi”. Thuyết chấp thường thì trái lại, cho rằng con người chết đi linh hồn vẫn còn, vẫn vĩnh viễn lên thiên đàng hoặc mãi xuống địa ngục.
    Với Võ Thạnh Văn , tuy am hiểu thuyết luân hồi của Phật giáo, nhưng vì trước đây là một tu xuất nên có thể ông dễ dàng chấp nhận thuyết chấp đọan hơn , vì con người tiền thân là cát bụi phải trở về cát bụi, mặc dù bị quá trình tạo kiếp chi phối . Con người có những nỗi khổ đau tự tại trong kiếp sinh.
     
    “ Khổ đau. Tự tánh. Vô thường
       Hốt nhiên . Tụ tá. Như thường. Như không.
       Nửa  khuya lạnh nụ yêu hồng
       Mai mùa tình . Chín rục. Nồng ngát hương.”
     
    Thân phận của Cát bụi trong KINH VÔ THƯỜNG CỦA Võ Thạnh Văn , chính là thân phận của con người có những cảm giác , cảm nhận vui , khổ hoặc không vui khổ  từ Ngũ Uẩn ( Mắt , Tai, Mũi , Lưỡi, Thân) . Rồi cũng từ năm giác quan này đưa con người đến ý thức tâm thiện hay tâm ác, mà sinh ra u sầu hay trụy lạc.
     
    “ Cát pha bụi. Lạnh lòng tay
       Nồng đêm trăng giải. Ấm ngày sầu chao
       Tình buồn ( từ thuở) uyên trao
    Vàng rơi. Ngọc rụng. Mày chau. Châu trầm.
     
     
    Trên khía cạnh học thuật, chúng ta đều phải công nhận tác giả Võ Thạnh Văn là người thêm vào tòa nhà văn học Việt Nam một nghệ thuật mới trong cung cách sáng tác và sử dụng cấu trúc trong thể thơ Lục Bát rất thuần điệu.  Xưa nay, dùng thơ để viết kinh là thông thường, nhưng dùng thơ Lục Bát và ngắt dấu  để viết Kinh Thư mới là một phát sinh mới đáng đề cập.
    Với KINH VÔ THƯỜNG, đại để là 10 tập thơ  Cát Bụi,  mà đặc trưng là Cát Bụi 2, chúng ta còn thấy nơi Võ Thạnh Văn một con người luôn tìm tòi học hỏi , nghiên cứu sâu về các triết lý sống của nhiều Đạo Giáo. Ngoài các triết thuyết lớn của các tôn giáo hiện hữu. Võ Thạnh văn đã còn có một triết lý sống cho chính bản thân mình. Tác giả  đem niềm vui vào sự nghiên cứu triết lý, cho bản thân và cho giới nghiên cứu triết học. Với Võ Thạnh Văn triết lý là bình thường, là nhân văn là trong cuộc sống thường ngày của con người, những bị , lạc, ….đó là triết lý, nó là những ý thức, ý niệm không xa vời với con người. Thái độ khiêm cung trước mọi người cũng chính là triết lý sống của tác giả. Cũng với tác giả ý thức quan niệm của con người  còn là một triết lý sống thực hơn hết.  Đó là lối sống “không xa đời, không tránh người, gần với trời , hòa với đất, vui với đạo, yên với đức , bằng lòng với số mệnh, chấp nhận an bài , không oán, không ghét không giận, không hờn chỉ thương, chỉ nhớ, nên vui, nên mừng, để tích hợp diệu nghĩa, để biểu đạt lương duyên” Vì am thấu đời người là vô thường nên tác giả chấp nhận lẽ trời như là một thực thể trong cuộc sống của mình, rồi chiêm nghiệm sự tất yếu của luật vô thường mà sẵn sàng kết thân với sự chết, để biết hành tàng của sự  Thành, Trụ, Họai Không, từ đó sẳn sàng cho linh hồn mình có sự  tự do thoát khỏi mọi sự trói buộc sự phóng đãng của lý trí.
     
    “ Ngày mai cát bụi xa rồi
       Ta lên đồi vắng. Ngóng môi mắt về
       Bốn bề (sương tỏa) lê thê
       Trường sơn ( lạnh ngắt như mê) mộng vờn”
     
    Tóm lại,  với quan niệm đời người là cát bụi phù du, nay còn mai mất, và dù chấp nhận lẽ tất yếu của thuyết vô thường, nhưng tác giả vẫn phải tranh đấu để tồn tại dù sự tồn tại trong giới hạn của một kiếp nhân sinh. Không vì hiểu đời là vô thường mà thụ động trong cuộc sống, Võ Thạnh Văn luôn làm việc siêng năng để có được cái cơ may trong cuộc sống làm người, ông sáng tác , viết sách, viết kinh không phải để khoe cái kiến thức uyên bác của mình, hay muốn thế hệ sau biết về mình hoặc mong có đuợc người tri âm hay tri kỷ. Hơn ai hết ông đã biết:
     
    “ Chìm trong khói bụi . Am tăng 
      Vô thường một thoáng .Thường hằng phù vân
       Xác thân ( huyễn hoặc ) vô ngần
       Độ người siêu thoát . Trăm ngần họa tai”
     
    Võ Thạnh Văn viết kinh , viết sách , hay làm thơ , làm văn chương đó chỉ qua là để trả cái nợ nhân sinh của người tuấn kiệt . “Âu đó cũng là cái nghiệp dĩ của một kiếp tài hoa.”
     
    HÀ ĐÌNH HUY
  • Phê Bình

    Nhận định về CD album Đoạn Trường Tân Thanh của nhà thơ Tâm Thơ và nhóm nghiên cứu (HDH)

    NHẬN ĐỊNH VỀ CD ALBUM ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH  CỦA NHÀ THƠ TÂM THƠ VÀ NHÓM NGHIÊN CỨU
     
    HÀ ĐÌNH HUY
     
     
    Nhà thơ Tâm Thơ – Cúc Nguyễn, thủ quỹ của Cơ sở Thi Văn Đàn Lạc Việt có đưa cho tôi một CD Album về Truyện Kiều, nhã ý nhờ tôi có một vài nhận xét về CD Album này của nhà thơ. Thành thật mà nói, tôi không dám nhận lời này của nhà thơ Tâm Thơ, bởi nhiều lý do tế nhị, chính yếu là khả năng nhận định, nghĩa là phải nhận định thế nào cho trung thực và nhất là tác phẩm truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du đã có quá nhiều văn thi sĩ cũng như các nhà làm văn học nghiên cứu và viết cảm tác nhiều rồi. Tuy nhiên, vì cùng là bạn thơ và đồng quan điểm với các đàn anh trong Cơ Sở Văn Thi Đàn Lạc Việt làø: giúp đỡ cho những cây bút trẻ phát triển mạnh mẽ trong lãnh vực sáng tác, đồng thời nghĩ rằng, dù trước đây có nhiều nhà nghiên cứu viết nhiều cảm tác đối với Truyện Kiều , nhưng chắc mỗi người đều có nét độc đáo riêng nên tôi mạo muội nhận lời.
    Theo một số tài liệu khả tín thì có hơn 100 người làm công việc này, nhưng mỗi người đều có một đặc thù riêng trên phương diện nghiên cứu và viết cảm tác. Có người chỉ đề cập đến lãnh vực đạo đức trong Truyện Kiều, người khác thì về tính dục hoặc về triết lý …
    Đối với nhà thơ Tâm Thơ lại có cái nhìn khác, nhà thơ đã bỏ nhiều thời gian để cùng nhóm nghiên cứu đến nhiều lãnh vực của Truyện Kiều như  nguồn gốc , tiểu sử, giá trị văn chương…
    Mở đầu CD Album nhà thơ và nhóm đã chọn bài thơ Đường của tiến sĩ  Phạm Húy  Thích, người bạn cùng thời của đại thi hào Nguyễn Du để khai lưu cảm tác của mình với Truyện Kiều.
     
    Giai nhân bất thị đáo tiền đường
    Bán thế yên hoa trái vị thường
    Ngọc diện khởi ưng mai thụy quốc
    Băng tâm tự khả đối kim lang
     
    Đọan trường mộng lý căn duyên liễu
    Bạc mệnh cầm chu oán hận trường
    Nhất phiến tài tình phiên cổ lụy
    Tân thanh đáo để vị thùy thương
     
    Giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan
    Phong ba chưa chắn nợ hồng nhan
    Lòng tơ còn vướng chàng Kim Trọng
    Gót ngọc khôn đành giấc thụy khoan
     
    Nửa gối đọan trường tan giấc điệp
    Một giây bạc mệnh giấc cầm loan
    Cho hay những kẻ tài tình lắm
    Trời bắt làm gương để thế gian
     
    Nhóm nghiên cứu và nhà thơ Tâm Thơ, chọn bài đường luật của tiến sĩ Phạm Húy Thích âu cũng có dụng y,ù vì nhóm  đã biết rõ ông là bạn thân của thi hào Nguyễn Du, nên có nhiều gần gũi với Nguyễn Du. Lại nữa ông là một danh sĩ  giữ nhiều chức vụ quan trọng của ngành  văn hóa trong triều đình thời bấy giờ. Cho nên nhóm và nhà thơ Tâm Thơ đã không ngần ngại chọn thơ của ông để mở đầu CD Album của mình.
    Đi theo  Phạm Húy Thích để gần gũi với thi hào Nguyễn Du, nhà thơ Tâm Thơ cùng nhóm đã tìm hiểu thật ngọn ngành về tiểu sử của thi hào Nguyễn Du, nguồn gốc tác phẩm và giá trị văn chương.
     
    Về mặt tiểu sử:
     
    Theo nhóm và nhà thơ Tâm Thơ: Nguyễn Du có tên úy là Du, tự là Tố Như , hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn Hiệp Lộ, hay Nam Hải Điếu Đồ. Sinh năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 năm 1765. Mất vào ngày mồng 10 tháng 8 năm đầu niên hiệu Minh Mạng  năm 1820. Là con thứ 7 của ông Xưng Quận Công Nguyễn Nghiễm. Người Làng Tiên Điền Huyện Nghi Xuân Trấn Nghệ An. Nguyễn Du thiên bẩm hậu về tình, hùng về khí , cao về tài , uyên bác học vấn. Cảnh ngộ 11 tuổi mất cha 13 tuổi mồ côi mẹ. Thiếu thời sống nhờ anh ruột là Nguyễn Khản , làm con nuôi của một võ quan họ Hà . Lập gia đình rồi lại có thời phải tá túc nhà anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Gặp lúc tình hình đất nước biến động Trịnh Mạc rồi đến Lê Triều suy , Tây Sơn dẹp giặc Thanh họ Nguyễn Tiên Điền cũng sa sút. Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi cho đến năm 1802 mới ra làm quan triều đình nhà Nguyễn được thăng chức rất nhanh, từ tri huyện lên tham tri vào năm 1815, làm chánh sứ đi Tàu đời nhà Thanh vào năm 1813. Nhờ từng trải nhiều cảnh ngộ , với tư chất chúng nên văn chương Nguyễn Du dung hóa , thấu lý nhập thần. Nguyễn Du sáng tác nhiều tác phẩm  viết bằng Hán Văn như Thanh Hiên Thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm,Bắc Hành tạp Lục. Lời thơ vô cùng điêu luyện, bút pháp hoàn mỹ . Tác phẩm được xem như tiêu biểu nhất cho Nguyễn Du là Đoạn Trường Tân Thanh và Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh đều được viết bằng quốc âm, tức là chữ nôm xưa kia. Cả hai tác phẩm này có trình độ nghệ thuật bậc thầy đầy ắp tình nhân đạo, phản ánh sinh họat xã hội bất công, cảnh đời dâu bể . Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh là một tác văn ngắn viết theo thể văn tế. Trong khi Đoạn Trường Tân Thanh là một trường thiên viết bằng văn vần, thể thơ lục bát có một giá trị văn chương tuyệt tác trước sau chưa từng có trong văn học Việt Nam.
     
    Về nguồn gốc:
     
    Nhóm nghiên cứu và nhà thơ Tâm Thơ, cũng xác quyết rằng từ giữa thế kỷ 18 qua đến thế kỷ 20  Truyện Kiều được in ấn, chú giải được phổ biến từ Bắc chí Nam Việt Nam dưới dạng chữ Nôm và phiên ấm quốc ngữ , nhưng vì bản gốc thất truyền nên có hơn 20 dị bản chữ Nôm lẫn quốc ngữ được lưu hành ở Việt Nam cũng như cất giữ trong các thư viện quốc gia nước ngoài. Kể từ bản khắc nôm cổ của Liễu Văn Đường in vào năm Bính Dần Tự Đức thứ 19 năm 1866, vừa phát hiện và đang lưu giữ tại nhà lưu niệm Nguyễn Du ở Tiên Điền cũng có nhiều chỗ khác biệt so với bản in  của chính Liễn Văn Đường in năm 1871, đang lưu giữ tại liên trường sinh ngữ Paris.
     
    Nhóm nghiên cứu và nhà thơ Tâm Thơ cũng cho rằng  các nhà xuất bản hay các nho gia và các học giả tên tuổi cuối thế kỷ thứ 19 và đầu 20  đều có thủ đắc riêng những ấn bản nhưng đều dị biệt. Di biệt ngay trang đầu của ấn bản . Thí dụ ngay trang bìa của ấn bản do nhà in Quan văn Đường phát hành vào năm Thành Thái thứ 9 thì có tựa là : Kim Vân Kiều Thi Tập Thời Hiền Thi Cự. Trong khi bản in chữ nôm của Kiều Óanh Mậu năm 1902 thì có võn vẹn 4 chữ Đoạn Trường Tân Thanh , còn bên trong có hàng trăm câu chữ không đồng nhất mà ý kiến của mỗi nhà chú giải cũng có nhiều chỗ dị đồng đôi khi trái ngược hẵn nhau. Xin  dẫn bằng 2 câu 7 và 8 của Truyện Kiều . Đó là hai câu mà hầu hết  ai thuộc ít nhiều câu Kiều cũng đều biết  chẳng cần gì đến 
    các bậc học giả:
     
    “ Cảo thơm lần dỡ trước đèn
    Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”
     
    Đã có những dị bản câu thứ 8 như: “ Phong tình cổ lụy còn truyền sử xanh” hoặc “Phong tình cổ tích còn truyền sử xanh” hoặc “ Phong tình có lúc còn truyền sử xanh”. Và những ý kiến khác nhau của những nhà chú giải đã gây ra nhiều cuộc tranh luận gay gắt trên báo chí sách vở từ trước đến giờ. Vần đề dị bản truyện Kiều là một lãnh vực chuyên môn . Vì thế nhà thơ Tâm Thơ đánh tiếng , đó không phải là đường hướng nghiên cứu của nhà thơ, và vì nhà thơ thực hiện CD Album theo hình thức thanh nhạc dân tộc , nghĩa là có ngâm thơ, nên nhà thơ đã chon một ấn bản truyện Kiều có tính thuần lý và  dung hòa , phổ thông nhất ở Việt Nam là ấn bản của học giả Đào Duy Anh để làm văn bản cơ sở nghiên cứu. Và nhà thơ cũng mong sự đồng cảm của các bậc thức giả trong chọn lựa tế nhị nay của nhà thơ.
     
    Sự lên tiếng kính cẩn của nhà thơ Tâm Thơ đối với vấn đề chọn lựa ấn bản để thực hiện sự nghiên cứu, đó là thái độ lịch thiệp của một con người cầm bút chân chính phải có . Theo thăm dò một số ý kiến của các bậc trí giả, họ đều đồng ý rằng ấn bản của Đào Duy Anh vẫn rõ ràng hơn về mặt nội dung cũng như hình thức.
     
    Tuy nhiên để bổ sung vào việc truy tìm nguồn gốc của tác phẩm Đọan Trường Tân Tân gần đây nhất người ta tìm thấy bản Kiều cổ nhất ấn bản năm 1852.
    Theo người viết tin tín cẩn về sự việc này là Vũ Toàn thì gần 100 pho sách cổ về gia phả dòng họ Nguyễn Tiên Điền ở huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) vừa được phát hiện trong gia đình một công chức ở TP Vinh (Nghệ An).
    Điều thú vị nhất trong 100 pho sách này là lần đầu tiên độc giả của Truyện Kiều và giới Kiều học được nhìn thấy dòng chữ viết tay của học giả Lê Thước về giờ, ngày, năm sinh, nơi sinh của đại thi hào Nguyễn Du và một bản Kiều cổ nhất.
     
    Không khỏi ngạc nhiên về giá trị văn học, lịch sử, địa lý… đang tiềm ẩn trong gần 100 pho sách rất cổ. Đặc biệt, nhiều cuốn sách chữ Hán Nôm được những tên tuổi dòng họ nổi tiếng này viết tay. Đặc biệt hơn, cuối một số cuốn còn nguyên lưu bút những suy ngẫm về thời thế, văn chương của họ.
     
    Bộ sưu tập sách cổ
     
    Khởi thảo cuốn bản thảo gia phả dòng họ Nguyễn Tiên Điền do cụ Nguyễn Nghiễm viết. Sau đó cụ nghè tiến sĩ Nguyễn Mai tục biên (chép lại) thành bản gốc. Đây là cuốn gia phả gốc, rất chi tiết về dòng họ Nguyễn Tiên Điền lần đầu tiên được phát hiện.
    Tiếp theo là cuốn gia phả lược trích tên, chức vụ phần đại tôn của dòng họ, tóm tắt những nét cơ bản và những biến đổi trong xã hội gây tác động lớn lao tới dòng họ từ đời thứ nhất đến đời thứ mười.
    Cuốn này do con trai và con rể cụ Nguyễn Trọng (cháu cụ Nguyễn Mai) là Nguyễn Hiệu và Lê Văn Diễn viết vào đời Minh Mạng thứ 9 năm 1828. Cũng tại cuốn gia phả gốc, học giả Lê Thước (1891-1976) đã viết thêm vào phần cuối về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du. Có thể đọc thấy những dòng chữ: “Cụ Nguyễn Du sinh giờ Dần ngày 23-11 năm Ất Dậu (năm 1765 âm lịch – NV), hiệu Cảnh Hưng thứ 26, triều vua Hiến Tôn, nhà Lê (tức ngày 3-1-1766 dương lịch). Nơi sinh, ở biệt thự Trung cần công Nguyễn Nghiễm, tại phường Bích Câu, thành Thăng Long”.
     
    Kế bên là Truyện Kiều chép tay (do mất bìa và một số trang nên chưa rõ năm ra đời) và cuốn Kim Vân Kiều lục, gồm 64 hồi (biến thể Truyện Kiều dùng cho hát trò Kiều) được chép tay năm 1852. Đây là bản Kiều được xem là cổ nhất hiện nay sau bản Kim Vân Kiều tân truyện của nhà tàng bản (khắc in) Liễu Văn Đường, in năm Tự Đức thứ 19 (1866) được phát hiện năm 2004 trong một gia đình giáo viên ở xã Thanh Lương, huyện Thanh Chương (Nghệ An). Phần sau cuốn Kim Vân Kiều lục là toàn bộ Hịch Văn Thân Nghệ Tĩnh cũng được viết tay bằng những nét chữ khá đẹp.
     
    Bản Kiều chưa rõ năm ra đời
    Ngoài ra, còn có rất nhiều cuốn sách quí khác, ví như cuốn Hát trò Kiều (ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân); Ngọc Hoa cổ tích truyện của vua Khải Định; tập thơ Nam Sơn Thám hoa của Nguyễn Đức Đạt viết tặng; một số bài thơ, câu đối đặc sắc của Nguyễn Hành; Huấn tự quốc ngữ ca (sách dạy con); bộ sách thuốc, châm cứu – 50 cuốn; bộ sách địa lý, thiên văn – 10 cuốn và cuốn Địa lý gia truyền bí quyết (gồm bản thảo, bản gốc) do cụ Nguyễn Quỳnh (ông nội Nguyễn Du) viết tay.
     
    Cuối cuốn sách này, cụ Nguyễn Quỳnh viết: “Nếu đọc được sách hay và viết được sách hay có ý nghĩa như thế này thì cuộc đời tôi sẽ không làm gì hơn là chỉ đọc sách và viết sách. Vì những việc làm từ câu chữ trong sách sẽ giúp ích lớn cho đời”.
     
    Ông Nguyễn Hải Nam, giám đốc Trung tâm Văn hóa – thông tin – thể thao huyện Nghi Xuân, người phát hiện, sưu tầm 100 pho sách cổ này, cho biết: “Chủ nhân số sách quí là một cán bộ công chức ở TP Vinh, thuộc dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Khi tôi đến tìm, ông cho biết sách được cất giữ trong các thùng cactông, gác cẩn thận trên xà nhà. Ông bảo: “Trước khi mất, cha tôi dặn tất cả sách này đều rất quí nhưng quí nhất là hai cuốn Truyện Kiều, cuốn gia phả và bộ sách thuốc nên được cất riêng trong một tráp gỗ sơn son”. Nhưng từ đó cho đến khi mang được toàn bộ số sách về trung tâm văn hóa huyện phải mất hai ngày thuyết phục, vì ông tưởng tôi đi buôn sách cổ thì hỏng hết. Rất may, tôi cũng là con cháu họ Nguyễn Tiên Điền, lại làm ở Trung tâm Văn hóa Nghi Xuân nên ông tin và cả quyết giao cho”.
     
    Về giá trị văn chương:
     
    Về phương diện giá trị văn chương, nhà thơ Tâm Thơ và nhóm nghiên cứu cũng đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu trước đây tác phẩm Đọan Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du là một kiệt tác, một khúc nam âm tuyệt xướng. Lời lẽ xinh xắn mà văn hoa, âm điệu ngân vang mà tròn trịa. Nói tình thì vẽ được hình trạng, hợp ly, cam khổ, mà tình không rời cảnh; tả cảnh thì bày hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa, mà cảnh thì tự vướng tình, khiến người cười, khiến người khóc, khiến người giở đi giở lại ngàn lần, càng đọc thuộc, lại càng không biết chán từ hàng vua quan, khoa bảng đến người dân đều nhiệt liệt ca ngợi. Cho nên hàng bao thế kỷ đi qua, đến nay chưa có tác phẩm nào thay thế được trong nền văn học Việt Nam, và vì  tính văn chương cao như thế nên truyện Kiều được diễn dịch ra nhiều ngôn ngữ để truyền bá nền văn học của nước nhà.
     
    Kết luận
     
    Tóm lại nhà thơ Tâm Thơ và nhóm đã bỏ công thực hiện CD Album theo hình thức Thanh Nhạc Dân Tộc, có thể nói đây là một hình thức khá mới mẻ đối với việc thực hiện cảm tác đối với truyện Kiều từ trước đến nay. Việc làm này có tính thời đại về kỹ thuật và văn minh . Lại nữa CD Album được có sự cộng tác của nhiều nghệ sĩ tên tuổi trong và ngoài nước như Tô Kiều Ngân , Đoàn Yên Linh, Hồng vân, Thanh Trung, Tuấn Phong, Thúy Vinh, Kim Lệ, Đài Trang, Bích Ngọc, Ngô Đình Long, Thanh Quang, Văn Xuân Thy, Bảo Cường, Vân Khanh, Hương Sen, Kim Luyên,THùy Dương, và Thy Thảo. Cùng với dàn nhạc : Thạch Cầm, Thúy Hạn, Thanh Bình, Vũ Thành , Xuân Huyền, Kim Long, Tô Kiều Ngân, Mạnh Hùng.
    Một trong những nhà làm văn học lão thành hiện đang ở hải ngoại, khi nghe qua CD Album Đoạn Trường Tân Thanh của nhà thơ Tâm Thơ và nhóm nghiên cứu ông buộc miệng nói: “ Đây là một tác phẩm có tính nghiên cứu thời đại với kỹ thuật cao và mới mẽ nhất trong các loại thực hiện nghiên cứu , của các bậc trí giả từ trước đến nay” . Một nhà thơ khác lại phát biểu: “ Đây là một công trình có tính thực tiễn văn học mà nhà thơ Tâm Thơ và nhóm nghiên cứu thực hiện, với tâm huyết tạo cho những người yêu văn thơ Việt Nam có một tác phẩm qua hình thức nghe hơn là đọc. Với CD Album này, hy vọng là một phương tiện tạo cho người nghe về Truyện Kiều dễ dàng hơn và thích thú hơn . Cũng mong qua hình thức này của nhà thơ Tâm Thơ và nhóm nghiên cứu  người Việt sẽ hiểu rõ một cách đích xác về truyện Kiều, và càng ngày càng yêu mến Truyện Kiều hơn”. Yêu Truyện Kiều tức là yêu quê hương đất nước. Bởi học giả Phạm Quỳnh có nói: “ Truyện Kiều còn là tiếng ta còn” . Vậy người viết bài này cũng xin mạo muội viết : Tiếng ta còn, là đất nước còn” và cũng là câu cuối cùng để kết thúc bài nhận định này đối với CD Album của nhà thơ Tâm Thơ và nhómthực hiện CD Album Truyện Kiều.
     
    HÀ ĐÌNH HUY
  • Phê Bình

    Đoàn Thanh Liêm : “Nửa Thế kỷ Việt nam”

    Đoàn Thanh Liêm

     

    Tôi đọc cuốn “Nửa Thế kỷ Việt Nam

    Bút ký – Tự Truyện của tác giả Song Nhị

     

    Tôi sinh sống cùng với gia đình tại miền Nam California, nhưng cũng hay có dịp lên thăm gia đình con gái và cháu ngoại tại San Jose, nên được gặp gỡ sinh hoạt khá thường xuyên với anh chị em trong giới văn nghệ sĩ tại miền Bắc California.

     

    Trong số đông văn nghệ sĩ tại đây, tôi chú ý nhiều đến sinh hoạt của Cơ sở Thi Văn Cội Nguồn do các anh Diên Nghị, Song Nhị và các chị Huệ Thu, Ngọc Bích, Cung Diễm, Diễm Hương… chủ trương và kiên trì theo đuổi đã trên 15 năm nay. Cơ sở đã cho xuất bản được trên 40 tác phẩm thơ, văn và đến 50 cuốn tạp chí Nguồn; đặc biệt là điều hành được một tờ báo điện tử “Cội Nguồn”, cung ứng cho độc giả khắp nơi những bài vở thật đa dạng khởi sắc, những thông tin thật là phong phú, kịp thời trên internet.

     

    Vào cuối năm 2009 vừa đây, lúc đang ở San Jose, tôi được tác giả Song Nhị đích thân trao tận tay cuốn sách mới nhất của anh, nhan đề thật trịnh trọng: “Nửa Thế kỷ Việt Nam – Bút ký & Tự truyện”. Sách trình bày trang nhã, dễ đọc, dài tới trên 450 trang với khổ chữ đủ lớn phù hợp với thị giác đã suy yếu của lớp độc giả cao niên như người viết bài này.

     

    Nói chung, thì cuốn sách này chứa đựng khá nhiều chứng từ khả tín về những sự việc, mà chính bản thân tác giả đã trải qua, đã đích thân chứng kiến như là một nạn nhân, nhiều hơn là một người bàng quan ngoại cuộc, vô tư. Cụ thể như là các vụ đấu tố địa chủ trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất hồi giữa thập niên 1950 tại làng quê của gia đình tác giả ở tỉnh Hà Tĩnh thuộc Liên khu IV, phía bắc vĩ tuyến 17. Cả người cha và mẹ của tác giả đều bị đưa ra đấu tố và bị cầm tù trong hoàn cảnh rất tàn bạo, khắc nghiệt. Những mô tả này ăn khớp với nhiều chứng từ khác mà chúng ta đều biết đến suốt trên 50 năm nay, kể cả những chuyện của các bà con thân thiết trong gia đình bị kẹt lại ở miền Bắc sau năm 1954 và khi vào Nam sau 1975 đã kể lại chi tiết cho các bà con ruột thịt của họ.

     

    Đáng thương tâm hơn cả là trường hợp của người anh (con bác và là người anh đỡ đầu) của tác giả, tên là Trần Kim Phú đã bị chính quyền cộng sản xử tử hình, sau khi anh cầm đầu toán Biệt kích nhảy dù về Bắc, bị bắt khi vừa đặt chân xuống tọa độ. Trước đó anh từng nhiều lần vượt biên giới Lào-Việt về Việt nam đưa một số gia đình địa chủ vượt biên tị nạn. Có lần quân đội Phathet Lào (Lào cộng) bắt dẫn độ trở lại quê nhà và trao anh vào tay chính quyền địa phương xử lý. Những chuyện đau thương như thế tại một vùng nông thôn ở Hà Tĩnh đều được mô tả với giọng văn bình tĩnh, khách quan mà trung thực, thì càng có sức lôi cuốn và thuyết phục đối với số đông độc giả muốn tìm hiểu sự thực trong giai đoạn lịch sử đen tối ảm đạm này tại miền Bắc Việt nam hồi thập niên 1950-60.

     

    Nhờ sự bố trí khôn khéo và cương quyết của người cha, mà cả gia đình đã trốn thoát được sang bên quốc gia láng giềng là nước Lào, rồi cuối cùng vào đầu thập niên 1960, thì tới định cư được tại miền Nam Việt nam. Nơi đây, tác giả đã có cơ hội tiếp tục việc học tập lên tới bậc Đại học và đã tham gia sinh hoạt khá sôi nổi trong các lãnh vực văn hóa xã hội và giáo dục.

     

    Vào cuối thập niên 1960, thì giới học sinh sinh viên miền Nam tham gia sinh hoạt chính trị xã hội rất sôi nổi, trong đó có một bộ phận rất năng nổ do cộng sản tổ chức giật dây, nên đã diễn ra nhiều cuộc trực diện đối đầu căng thẳng với cơ quan an ninh, nhiều khi đưa đến chuyện bạo động. Tác giả vừa là sinh viên, vừa là giáo sư dậy học tại các trường trung học, nên đã bị lôi cuốn vào trong cơn lốc xoáy của lớp thanh niên trẻ của đô thị giữa một tình huống chiến tranh đang mỗi ngày càng leo thang tàn khốc.

     

    Tiếp sau đó, tác giả gia nhập hàng ngũ quân đội theo tiếng gọi Tổng động viên đối với các thanh niên còn ở dưới tuổi 33. Và với lập trường quốc gia vững chắc, được trui rèn qua bao nhiêu năm sống trong lòng chế độ cộng sản ở quê nhà tại Hà Tĩnh, viên sĩ quan trẻ tuổi này đã phân biệt thật rõ ràng được những thủ đoạn thâm độc, tinh vi khôn khéo của các tổ chức ngoại vi của cộng sản, được ngụy trang dưới chiêu bài đấu tranh cho tự do dân chủ, hòa giải hòa hợp nhằm tiến tới hòa bình, với sự chủ động của giới lãnh đạo chóp bu ở Hanoi. Nhờ vậy mà anh đã không để cho mình bị biến thành quân cờ bung xung cho phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt nam, như một số người nhẹ dạ khác đã từng bị ngả theo.

     

    Nhưng phần chứng từ quan trọng với đầy đủ chi tiết “bi hài” ngộ nghĩnh nhất, lại là những đoạn viết về tình hình sinh hoạt của các tù nhân trong các “trại cải tạo” dành riêng cho giới sĩ quan và viên chức của Việt nam Công hòa bị bắt đi “trình diện học tập” kể từ sau ngày 30 Tháng Tư 1975 oan nghiệt đau thương đó.

     

    Các mẩu chuyện mô tả ở phần này rất là sinh động, đôi khi hóm hỉnh, nhưng chủ yếu là rất trung thực trong cố gắng tường thuật những chi tiết rất đáng ghi nhớ trong cách đối xử của “cán bộ quản giáo coi tù” đối với “các học viên” là “tù nhân, phạm nhân”. Cũng như tác phong của một thiểu số những “học viên vì quá hèn nhát, nên đã tiếp tay với lũ cai tù để mà hành hạ, phản bội anh em đồng cảnh ngộ với mình”.

     

    Tác giả rất bình tĩnh, nương nhẹ chứ không có giọng điệu khắt khe hận thù gì đối với những con người yếu đuối hèn nhát này. Tuy vậy, các chứng từ rải rác trong khắp cuốn sách đều phù hợp với các tài liệu về tù nhân chính trị vốn được coi là có giá trị khả tín rất cao, mà đã được công chúng biết đến từ nhiều năm qua.

     

    Vắn tắt lại, dù đây chưa phải là một tài liệu lịch sử được biên soạn theo phương pháp nghiêm ngặt của khoa sử học, thì cuốn sách “Nửa Thế kỷ Việt nam” của tác giả Song Nhị rõ rệt là một đóng góp rất giá trị cho những ai muốn tìm hiểu về cái thời đại nhiễu nhương của dân tộc chúng ta trong suốt nửa thế kỷ qua. Tác giả vừa là một chứng nhân và cũng là một nạn nhân của cái nền độc tài chuyên chế tệ hại nhất trong lịch sử 4000 năm của đất nước ta vậy. Nên đã viết ra những chứng từ rất chính xác và chân thực.

     

    Về phương diện hình thức văn học, tác giả đã sử dụng một bút pháp “Bút ký – Tự truyện” khá nhẹ nhàng, bình thản để chuyên chở đến người đọc những điều tai nghe mắt thấy, những nỗi nhục nhằn vất vả của một tù nhân, cùng với những cảm nghĩ chân thực đầy tính nhân đạo khoan dung của mình, ngay cả đối với kẻ đã hành hạ áp chế tập thể những tù nhân như mình. Thái độ cao khiết như thế có thể gọi là “Can trường trong chiến bại”, là một từ ngữ đã được dùng như là một nhan đề cho cuốn sách của một vị sĩ quan thuộc binh chủng Hải quân vừa xuất bản vài ba năm gần đây vậy./

     

    California, Tháng Ba 2010

    Đoàn Thanh Liêm

     

  • Phê Bình

    Thanh Thương Hoàng : “NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM”

    Thanh Thương Hoàng

     

    Đôi Điều Về Nhà Thơ Nhà Văn Song Nhị                                                           

    Qua Cuốn “Nửa Thế Kỷ Việt Nam

                                                                                   

    1.

    Tôi thật ngạc nhiên sau khi đọc xong và gấp lại cuốn “NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM” bút ký, tự truyện của tác giả Song Nhị. (Tôi không biết gọi Song Nhị là “Nhà” gì vì ở anh nhiều “Nhà” quá: Nhà văn, Nhà thơ, Nhà biên khảo, Nhà báo, Nhà xuất bản). Ngạc nhiên không phải vì nội dung cuốn sách. Cũng không phải vì “văn chương” của tác giả mà ngạc nhiên vì Song Nhị đã viết và xuất bản 46 cuốn sách của mình và của các văn thi hữu, một cuốn đang sửa soạn in (gồm đủ thể loại Thơ, Văn, Biên khảo). Đây là một sự ngạc nhiên tình cờ thích thú. Tôi ít khi coi mục “Những tác phẩm đã xuất bản” của tác giả in ở trang đầu hay trang cuối cuốn sách. Nhưng khi đọc tới những trang cuối cuốn “NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM” mục “Phụ Đính 2”, tác giả viết về “Anh Hùng Và Tử Tội”, mải mê đọc nên khi tác giả “chuyển” sang mục “Đôi Dòng Về Tác Giả” tôi vẫn cứ đọc tiếp nên mới bắt gặp sự ngạc nhiên về Song Nhị.

     

    Thực ra thì lúc đi tù cộng sản về tôi đã tình cờ biết tới bút hiệu Song Nhị qua một bài thơ, nhưng thú thật lúc đó tôi không quan tâm lắm. Số là thế này. Một hôm tôi ghé vào nhà sách Khai Trí (cũ) đường Lê Lợi (không nhớ tên mới của nhà sách là gì) tôi cũng lại tình cờ, gặp ông Khai Trí chủ nhà sách Khai Trí (cũ) ở đây. Ông vào tìm mua cuốn sách gì đó. Ông cho tôi biết vừa xuất bản cuốn “THƠ TÌNH VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI CHỌN LỌC”. Ông ghi địa chỉ nhà và hẹn ngày tôi tới chơi để tặng sách.

        

    Sách rất dầy (cả ngàn trang như cuốn từ điển) in bìa cứng và trình bầy trang trọng, đẹp. Những bài thơ tình nổi tiếng thế giới kim cổ đông tây thì tôi cũng biết nhiều rồi nên tôi tò mò tìm đọc những bài thơ của các tác giả Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài, nhất là ở Hoa Kỳ. Trong số những tác giả này tôi thấy có Song Nhị, tác giả bài thơ “Ngày Đón Em Về”. Khi đó tôi chỉ quan tâm tới những nhà thơ đã thành danh trước 1975 nên tôi đọc lướt qua bài thơ của Song Nhị rồi… quên luôn, mặc dầu là bài thơ hay.  

       

    Tới khi sang Hoa Kỳ định cư năm 1999 tại San Jose, qua sự giới thiệu của anh bạn thân – Nhà thơ Diên Nghị (người cũng có thơ đăng trong tuyển tập thơ kể trên) tôi mới quen biết Song Nhị và “duyên văn nghệ” khởi sự từ đó. Nhưng tôi không ngờ Song Nhị đã viết và xuất bản nhiều sách đến thế sau khi tới Hoa Kỳ định cư. Vì ngoài sự kiếm sống hàng ngày cho mình và gia đình (nhân viên hãng điện tử làm việc toàn thời gian) Song Nhị còn làm nhiều “nghiệp dư” (hay nghiệp chính?) như chủ trương Nhà xuất bản Cội Nguồn, sáng lập viên – trưởng điều hành Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn, chủ biên trang văn học nghệ thuật hàng tuần Nhật báo Việt Nam Thời Báo tại San Jose, Tổng thư ký rồi chủ nhiệm chủ bút tạp chí Văn Nghệ NGUỒN, chủ trương biên tập Trang Nhà Cội Nguồn, tập họp khá nhiều Nhà Văn Nhà Thơ tên tuổi cộng tác. Trong vòng vài năm, Song Nhị (chủ trương Nhà Xuất Bản Cội Nguồn) đã xuất bản gần 40 cuốn sách của các tác giả trong và ngoài nước. Có những tác giả tên tuổi như Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, Diên Nghị, Ngô Đức Diễm, Trần Khải Thanh Thủy, Tuệ Nga, Sương Mai, Huệ Thu, Phan Thị Ngôn Ngữ, Cao Mỵ Nhân…

      

    Những việc kể trên chứng tỏ Song Nhị dành tất cả đời sống của mình cho “nghiệp” Thơ Văn. Cũng cần nhấn mạnh ở đây là phần lớn thơ văn của Song Nhị đều nói lên nỗi đau của con người, nỗi đau của dân tộc, nỗi đau của đất nước dưới gông cùm cộng sản. Anh đã viết bằng chính máu của mình như lời triết gia Nietzsche khuyên: “D écrire avec notre propre sang”.

     

    Với sự đam mê, với sự kiên trì, với năng lực dồi dào và nhất là “trái tim còn rực lửa” (tuy đã ở tuổi 70) tôi tin Nhà thơ Nhà văn Song Nhị còn cống hiến cho đời nhiều tác phẩm giá trị. Tới đây thiết tưởng tôi nên viết thêm là: trong lúc bọn “văn chương chợ trời” múa may quay cuồng đến nỗi nền văn chương của chúng ta trở nên u ám như hiện nay mà còn có những người cầm bút (đa số là nghèo) dám bỏ tiền ra in sách, quả là một sự đáng ca ngợi.

      

    2. 

    Đọc hết cuốn bút ký tự truyện “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” của Song Nhị dầy trên 400 trang, thú thật tôi đã buồn càng buồn thêm, đã đau càng đau thêm. Tôi thấy tôi, bạn bè tôi (và cả thế hệ tôi) hiển hiện trong cuốn sách. Chẳng biết chúng tôi có “sinh nhầm thế kỷ” không, nhưng điều chắc chắn chúng tôi đã bị đánh mất tuổi trẻ, đã bị cuốn hút vào trận bão thời đại và nhận lãnh những thua thiệt, bất hạnh về mình. Có thể nói cả thế hệ chúng tôi “mộng tan tành”(như lời than của Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn). Nỗi đau này không phải chỉ riêng Song Nhị mà là của tất cả chúng ta – những người sống sót trong cuộc chiến và sau đó trong tù đầy.                                                                                                                                          

     

    Ở phần kết cuốn sách, Song Nhị có đặt vấn đề là tại sao và nếu như…

    Vâng, nếu như không có Hồ Chí Minh, không có đảng cộng sản VN (bọn người buôn ảo mộng, cuồng tín, tàn bạo) thì làm gì có cuộc chiến tranh Việt Nam với con số hơn mấy triệu người hai miền Nam Bắc bị chết, máu chẩy thành sông xương chất thành núi cùng với bao gia đình tan nát đau thương. Và sau gần nửa thế kỷ cuộc chiến chấm dứt, nước mắt vẫn chưa ngưng chẩy. Đất nước bị xâm lấn, dân tộc vẫn quặn mình trong tủi nhục, trong khốn cùng.  

                                                                                                                                           

     

    Theo tôi, cuốn “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” của Song Nhị là những trang sử ghi đậm nét thảm họa của dân tộc ta trong suốt nửa thế kỷ 20. Nỗi đau này biết bao giờ nguôi?

     

    Thanh Thương Hoàng

     

  • Phê Bình

    PHONG THU Điểm sách: NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM

    PHONG THU

     

    Điểm sách:

     

    NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM

     

    Nhà văn Song Nhị nói với tôi rằng ông sắp hoàn thành tập bút ký-tự truyện “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” và sẽ phát hành trong năm tới. Quyển sách viết trong 10 năm gom lại một đời người. Cuối năm, tôi về New York thăm gia đình bên chồng hơn hai tuần. Khi trở về, tôi nhận được một chồng sách báo của bạn bè gởi đến nhưng bị ướt vì tuyết dày đặc gần 20 inches phủ khắp lối đi và xung quanh nhà. Tuyết tan thành nước đọng lại trên các lá thư, báo chí, và quyển sách của ông ướt nhiều nhất vì gói trong một bao thư bằng giấy màu vàng không có bọc ni-lon. Tôi tiếc nên đem vào lò sưởi bỏ phiá trên chiếc ghế nhỏ cho khô ráo lại.

     

    Nhìn trang bìa trình bày trang nhã, đẹp nhưng màu sắc vàng, cam, nâu sậm, xám buồn bao quanh những hàng cây bốc cháy trong lửa đỏ, mù mịt, như diễn tả thân phận của người Miền Nam đã trải qua trong cuộc nội chiến và cuộc đổi đời bi thảm.

     

    Sau khi chiếm Miền Nam, thay vì sử dụng chất xám của các trí thức, khoa bảng Miền Nam, người cộng sản vì lòng thù hận đã đem bắt giam, hủy diệt người Miền Nam, đốt sách vở và đẩy họ vào con đường bần cùng không lối thoát. Cộng sản Hà Nội muốn chống đỡ cho chính sách sai lầm, vô nhân đạo của mình nên luôn mồm tuyên truyền đổ lỗi cho chiến tranh, cho Mỹ-Nguỵ.

     

    Thực chất, cộng sản quen ăn rừng ở bụi như loài vượn, chỉ biết đấm đá, chém giết và ngu si nên không biết cơ cấu xã hội và xây dựng xã hội. Đất nước sau chiến tranh đã cùng kiệt, nghèo đói. Vết thương chiến tranh còn mưng mủ chưa lành, sao lại gây thêm chi bao thảm cảnh lầm than? Họ đã mở rộng nhà tù, bắt giam, bỏ đói, tiêu diệt hết tinh hoa của dân tộc của Miền Nam Việt Nam. Thay vì những người đó sẽ giúp ích cho xã hội, cộng sản lại biến họ thành gánh nặng cho xã hội. Họ ngồi tù nên chẳng làm gì ra của cải vật chất để xây dựng lại quê hương sau đổ nát.

     

    Năm vừa qua, trong cuộc nói chuyện với bạn bè tại Việt Nam, đa số đều là phóng viên tại Hà Nội, họ nói với tôi rằng: “Cộng sản có lắm mưu ma, chước quỷ. Họ muốn giết sạch hết QDCCMNVN (Quân dân cán chính min Nam – Ngun chú thích) nhưng sợ thế giới lên án. Do đó, họ bắt đi học tập cải tạo với chiêu bài đơn giản là “ráng học tập tốt rồi được trở về”. Họ cho người tù một niềm hy vọng để họ không chống đối. Với số quân nhân lớn như Miền Nam, nếu để sống bên ngoài sẽ rất khó quản lý. Họ sợ sẽ có bạo động khi người ta nhìn ra chân tướng của cái gọi là “giải phóng Miền Nam”.

     

    Tôi nghe xong mà rùng mình kinh sợ. Các anh còn nói thòng một câu: “Thủ tướng Phạm Hùng bị ám sát bằng độc dược. Ông Võ Văn Kiệt chết người ta vẫn nghi ngờ bị ám sát bằng loại thuốc độc gây phản ứng tim và chết đột ngột. Vì ông phản đối việc sáp nhập Thăng Long với Hồ Tây, giựt dây cho báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ khui ra vụ PU18. Băng đảng chúng nó phải thanh toán ông Kiệt để giành quyền lực và làm suy yếu lực lượng Miền Nam. Bộ chính trị Hà Nội gây sức ép buộc 20 Bộ Trưởng không tuân theo chỉ thị Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và buộc ông Dũng từ chức. Ông Dũng phải quay đầu lại với Nông Đức Mạnh. Ông Nguyễn Minh Triết bị “chơi cú tình bơ vơ” nên lạc lõng và sợ hãi. Trong khi bọn tham quan ô lại của Bắc Bộ Phủ đang bàn bạc với nhau bán đất cho nước ngoài và chia chát nhau ăn. Các bạn còn kể cho tôi nghe chuyện ông Nguyễn Minh Triết sợ bị quăng lựu đạn trong nhà và bàn tay khát máu của cộng sản Hà Nội đã có sự hà hơi tiếp sức của bọn Tàu Cộng.

     

    Tôi đọc rất nhiều bài của các cựu tù nhân chính trị viết về những trại tù cải tạo của cộng sản Bắc Việt dành cho người Miền Nam. Mỗi câu chuyện có những tình tiết khác nhau nhưng nội dung chính của nó là tố cáo chế độ tàn ác, diệt chủng của cộng sản Hà Nội đối với dân tộc Việt Nam. Nhân loại lên án Hitler và toà án quốc tế vẫn săn đuổi những tên tội phạm sát nhân trong thế chiến thứ hai. Nhưng so với Hitler thì cộng sản tàn ác gấp trăm lần. Nếu thế giới đào sâu, nghiên cứu, thống kê đầy đủ từng mốc thời gian từ khi chủ nghĩa cộng sản ra đời cho đến nay, số người bị giết, bị tàn sát tập thể, bị đoạ đầy trong các trại tập trung cải tạo của tất cả các nước cộng sản trên thế giới cộng lại, tôi tin chắc chắn rằng sẽ nhiều hơn gấp ba, bốn lần cuộc tàn sát của Hitler. Một điều đáng nói ở đây là Hitler còn biết quý trọng xương máu của đồng bào mình. Ông ta không tàn sát bừa bãi, đày đọa dân tộc mình.

     

    Tôi đã đọc “Tôi Phải Sống” của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, quyển sách đọc xong tôi phải khóc. Tôi cũng đã đọc quyển 1 và 2 “Thép Đen” của người tù Biệt Kích Đặng Chí Bình để thấy ý chí, nghị lực và niềm tin mãnh liệt của người chiến sĩ Biệt Kích trong nhà tù cộng sản.

     

    Và mấy tuần nay, dù rất bận rộn tôi cũng đã dành nhiều thời gian để đọc quyển sách “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” của nhà thơ Song Nhị. Từ khi quen biết ông cho đến lúc tôi cộng tác với Cội Nguồn, ông gởi tặng tôi tập thơ “Tiếng Hót Loài Chim Di”. Có những bài thơ đọc xong còn để lại tâm hồn tôi những rung cảm sâu lắng. Nó đi vào tâm tư người đọc và gợi lên những nỗi đau xót, chua chát cho thân phận của kẻ chiến bại trong cuộc chiến bảo vệ tự do, dân chủ cho Miền Nam Việt Nam:

    ……

    Hỡi bầy chim trên khóm rừng già

    Hỡi đàn ngựa hoang trên cánh đồng khô

    Hãy thức dậy từ giờ

    Nghe tiếng hát và lời giục giã

    Hãy tiếp tục bước đi

    đi suốt một ngày

    một tháng

    một năm

    một đời.

    Một đời

    sống

    chết

    không nguôi

    ….

    ……

    Trời sẽ nắng cây rừng hoang sẽ dậy

    bầy chim di sẽ vỗ cánh bay về

    ngày sẽ tới và mặt trời sẽ mọc

    hỡi loài người vội vã tỉnh cơn mê….

     

    (Tiếng Hót Loài Chim Di trang 15-16)

     

    Ngay từ trang 7 “vào tập thay Lời Tựa” cun Na Thế Kỷ Vit Nam, tác giả  viết “…Tôi đã viết và đã xoá từng dòng. Tôi đã viết và đã xoá từng trang. Tôi đã xoá nhiều lần như vậy…”.

     

    Quyển sách gây cho tác giả nhiều trăn trở, boăn khoăn, ray rứt, xót xa nên phải xoá đi xoá lại nhiều lần trước khi phát hành và đến tay người đọc. Quyển sách dày 467 trang bao gồm 16 chương. Mỗi chương chia làm nhiều tiểu đoạn, mang nội dung khác nhau và kèm theo phần phụ đính. Tác giả đã lấy mốc thời gian từ năm 1945 cho đến hôm nay 2009 để sàng lọc, biên soạn, tìm kiếm tài liệu thông qua kinh nghiệm cuộc đời. Tác giả cố gắng ghi chép lại trung thực những gì mắt thấy, tai nghe những sự kiện, con người mà ông đã từng chứng kiến, gặp gỡ, và tìm ra nguyên nhân của cuộc nội chiến và cuộc hành trình bi thảm của dân tộc Việt Nam suốt nửa thế kỷ.

     

    Nếu không đọc quyển sách nầy, tôi không thể nào hiểu được cuộc đời ba chìm bảy nổi chín lênh đênh của nhà thơ Song Nhị. Nó đã vượt qua sức tưởng tượng của một con người. Nỗi gian truân của ông bắt đầu từ quê hương Hà Tĩnh, nơi mà một đứa trẻ tiểu học như ông phải chứng kiến những cuộc đấu tố tàn ác trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất của cộng sản đã giết hại hàng triệu người và đẩy người dân vào cảnh bần cùng, đói rách. Hận thù giữa những người cùng làng xóm, thân tộc đã nẩy sinh từ đó và nó ngày càng lan toả trong suốt cuộc chiến và mãi đến nay vẫn không thể hàn gắn được.

     

    Trong tập bút ký nầy, nhà thơ Song Nhị đã diễn tả chi tiết từng con người, từng sự việc mà ông đã trải qua suốt 8 năm trong nhà tù cộng sản: Long Thành, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Xuân Lộc từ tháng 6 năm 1975 đến tháng 5 năm 1983. Năm 1975, ông chỉ 30 tuổi, vừa mới cưới vợ được 2 năm, lúc hương lửa mặn nồng rồi chia tay suốt 8 năm lưu đày trong ngục tù tăm tối, trên rừng sâu núi thẳm.

     

    Chính trong nhà tù cộng sản, ông mới nhìn thấy được sự va chạm và “cọ xát” giữa con người với con người, giữa thiện và ác, giữa nhân ái vị tha và bần tiện, giữa nhân cách cao trọng và lối sống ti tiện, hèn mọn. Cũng từ trong ngục tối, nhưng nơi đó đã mở ra cho ông nhận diện được chiếc mặt nạ, lon lá, chức quyền của một số người cùng chung chiến tuyến. Khi vào nhà tù, thân phận tù như nhau nhưng họ vẫn chiếu trên, chiếu dưới. Họ vẫn còn chia ra vai vế “cao trọng, quyền chức” và hạng người cặn bã vẫn không biết thương tưởng đến bạn bè đồng đội của mình. Thậm chí có những kẻ vô lương tâm hơn cả cán bộ cộng sản là bán linh hồn cho quỷ, cam tâm làm ăng-ten cho cai tù. Thay mặt luật pháp nhà tù đánh đập, chửi bới, hành hạ anh em đồng đội.

     

    Vụ án điển hình nổi cộm nhất làm rúng động trong và ngoài nước là vụ án Bùi Đình Thi mà LM Nguyễn Hữu Lễ đã viết trong quyển Hồi Ký “Tôi Phải Sống”. Nhà thơ Song Nhị đã nhắc lại vụ án nầy trong chương VIII “Bùi Đình Thi Chiêm Nghiệm Nhân Duyên Nghiệp Quả”. Chúng ta cũng sẽ tìm thấy trong quyển sách hình ảnh nhạc sĩ Thành An, người viết nhiều những bài hát “Không Tên”, khi vào tù nhân cách cũng là những con số không. Ông đã từng viết “…Nay mới biết đế quốc Mỹ là quân xâm lược. Bọn nguỵ quyền là lũ tai sai. Bao nhiêu năm cung cúc tận tụy miệt mài. Cứ ngỡ rằng mình lo việc nước…”. Không biết có phải vì ăn năn hành vi của mình hay không mà nhạc sĩ “Không- Không” nầy chạy qua Mỹ và trở thành Phó Tế khả kính chuyên la gào trên làn sóng ĐTNVNHN để xin tiền làm từ thiện? Câu hỏi nầy chỉ có ông mới trả lời đầy đủ.

     

    Bạn đọc cũng sẽ nhận ra những con người hạ tiện vì muốn có một miếng ăn với đặc quyền đặc lợi trong tù, họ sẵn sàng làm tôi tớ cho bọn bất nhân như người đội trưởng trừng giới Vũ Long Mão, người nầy đã bắt anh Lâm Ngọc Thu trói lại, buộc vào cây cột sắt. Ông Thu và hai người tù khác là ông Phan T. Khải và Uông Kim Cho đã bỏ nắm xương tàn trong nhà tù Thanh Hoá. Họ không bao giờ còn trở về Miền Nam ruột thịt. Những kẻ phản bội nầy tôi tin chắc rằng họ đã có mặt ở đâu đó trên đất nước Hoa Kỳ. Tôi vẫn mong họ đã sám hối những việc mình đã gây ra.

     

    Trong nhà tù, bất cứ ai tiếp tay với cai tù gây hại cho bạn tù đều là kẻ tòng phạm mang tội sát nhân. Ngoài ra tác giả còn đề cập đến hai trí thức đại gian hùng là Phan Thế Đ. Và Trần Nguyên Đ. cả hai cây ăng-ten, đội truởng nầy đã không dám xin đi tị nạn cộng sản.

    Nhà thơ Song Nhị cũng tố cáo chế độ tàn ác, bất nhân của tù cộng sản. Nó thể hiện rõ nhất trong chương X: “…Buồng giam là những dãy nhà chiều dài trên vài chục thước, thông suốt từ đầu tới cuối, sâu hun hút, không có cửa hậu chỉ có cửa vào như một điạ đạo… sau vài cơn mưa nhỏ, cái nắng nhiệt đới đã oi nồng làm bốc lên mùi ẩm mốc, hôi hám, ngột ngạt… thức ăn là bo bo và khoai mì củ, là sắn khô nấu lên, là cơm, với mỗi ba có khi mỗi người được hai thìa cà phê nước mắm sống, có khi là loại nước mắm nêm đen như cà phê đậm, có khi vài gắp rau hòa trong nửa ca nước muối.. (Lý Bá Sơ, Danh Bất Hư Truyền (trang 222).

    Thê thảm và khủng khiếp hơn là trại tù cải tạo đã biến con người thành con vật: “…Người nào đầu cũng lớn hơn thân mình. Hai hàm răng nhô ra, cặp mắt lõm vào sâu hoẳm.Tay chân khẳng khiu như que củi…” (Đoàn Ma Đói Chờ Điểm Số Lên Đồi (trang 256). Không những hành hạ về tinh thần, bỏ cho đói khát, tuyệt vọng. Cộng sản còn hành hạ thể xác bằng cách làm lao động khổ sai: “…Bầu trời xám xịt, sương mù lãng đãng xuống thấp, đoàn người nối đuôi nhau đi trong hơi lạnh. Mỗi người một khối đá nặng trên vai. Đá được lấy từ một chỗ từ phiá bên kia chân núi, đoàn tù vác đá đi giáp vòng quanh ngọn núi tới phiá bên nầy….vai rớm máu…” (Tôi Đi Giữa Đoàn Tù Vác Đá” (Trang 226).

    Tàn ác hơn là hình thức kỷ luật kiên giam, đánh đập tù nhân hành sự một cách tàn bạo vì người nầy đói phải ăn cắp một bụi khoai mì: “…Người công an mở cửa một cái hầm cầu tiêu, dắt một người tù hình sự lại trước cửa hầm, bảo đứng quay mặt vào trong, rồi đưa chân lên cao tống một đạp vào lưng, người tù bổ sấp xuống úp mặt vào hầm cầu tiêu. Người công an đóng cửa hầm cầu, thản nhiên quay lưng đi…” (trang 275).

    Trong số những kẻ sống vì bản năng sinh vật, trái tim đã đóng băng, đầu óc chứa toàn sỏi đá. Cũng có hình ảnh một vài nhân vật là công an, là cán bộ quản giáo còn sót lại một chút lòng nhân đạo. Họ vẫn không bị bộ máy tuyên truyền láo khoét, bịp bợm của cộng sản làm mất đi nhân tính. Nhà thơ Song Nhị đã ghi lại những hình ảnh hiếm hoi về những người không cùng chuyến tuyến nhưng còn biết đau khổ, xót thương cho cảnh tù đày của người sa cơ, lỡ vận: “…Một công an vào buồng giam nhìn mấy chục ống lon Guizgo sáng loáng sắp thành dãy của tù dựng nước uống, rồi chỉ tay vào mấy cái bình đựng nước XHCN, đã thành thật phát biểu với chúng tôi: “Cứ nhìn những thứ nầy là biết, cần gì phải nói ai hơn ai thua…” (trang 187). Những công an cán bộ chỉ là kẻ thừa hành mệnh lệnh cấp trên đã từng đứng trước các tù cải tạo nói rằng “…Chúng tôi chỉ làm việc theo chỉ thị ở trên giao. Chúng tôi giúp đựơc các anh những gì thì tôi sẽ giúp, mong các anh được sớm trở về với gia đình”. Hay một nữ công an đem một chai nước mắm đến cho cả buồng…. và nói “chắc các anh nhớ nhà, nhớ vợ con lắm phải không?”. Nói xong, người nữ công an im lặng một lúc, hai hàng nước mắt lăn tròn trên đôi gò má…” (Trang 187). Tác giả cũng công tâm nói về người Giám Thị trưởng Lê Xuân Thực đã ký giấy cho ông nhận lại chai rượu thuốc mà gia đình mang vào trị bệnh đau khớp và đau bàn toạ.

     

    Thông thường, ở tù cộng sản không ai dám hó hé, phát biểu ý kiến hay có ý kiến trái ngược với cai tù. Thế nhưng trong cảnh tù đày, người lính VNCH vẫn không sợ đói, khổ, hành hạ thân xác hay bị biệt giam. Họ dám phản kháng lại chế độ nhà tù bằng hành động tuyệt thực để cứu bạn hoặc chống lại hình thức ngược đãi quá đáng của cai tù như: Tẩy chay nội quy và từ chối học tập thảo luận, ca hát, phản đối bằng hình thức tuyệt thực để chống lại sự bắt giữ tù nhân chỉ vì họ phát biểu về sự lừa bịp trắng trợn của cộng sản ở chương X “Biểu Tình Tuyệt Thực Rừng Vang Tiếng Hát”.

     

    Đây là chương gay cấn, lôi cuốn người đọc, tác giả đã chứng minh tinh thần bất khuất, đoàn kết, thương yêu của các tù nhân QĐVNCH. Một số tù nhân đôi khi chửi bới thẳng thừng: “…Chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghiã phi nhân, dối gạt và tàn ác” (trang 238). Ba người tù bị bắt là Trần Văn Chí, Lê Quảng Lạc và Ngô Văn Tiệp đã dẫn đến cuộc phản kháng, biểu tình dữ dội của các tù nhân chính trị:  “…Từ 7 tối đến hơn 3 giờ sáng mọi người vẫn canh thức hát vang dội một góc trời. Tôi có thể quyết đoán là rừng Lam Sơn rung chuyển. Những bài hát, những lời ca hùng tráng vang dội trong màn đêm tĩnh mịch: Ta như nước dâng, dâng tràn có bao giờ tàn. Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang, lê đôi bàn chân gông xiềng của thời xa xăm....” (Trang 240). 

     

    Trong chương IX (Trang 188), tác giả có nhắc đến một người tù trẻ tuổi, một anh hùng. Anh cô đơn chống lại bầy sói dữ. Nhưng thái độ vẫn ung dung và xem cái chết nhẹ tựa lông hồng: “…Người bạn nầy tuổi khoảng dưới 30. Đầu cạo nhn, trân cánh tay vẽ một lưỡi kiếm dài… Phần cán lưỡi kiếm là một ngọn lửa rất sắc nét với hai chữ PQ (phục quốc)… Khi bước qua sân, vòng ra hồ tắm phía sau, người bạn nói với cả buồng, nói cho mọi người nghe, giọng nói rắn chắc: “Hãy  ngẩng đầu lên mà đi các anh ơi. Người nầy chết có người khác đứng lên…” Có rất nhiều người tù vô danh, họ đã nằm xuống vì dám chống lại chế độ bạo ngược.  Tác giả cũng nhắc đến ông Phạm Dương Đạt vì phát biểu tố cáo chế độ cộng sản, ông đã bị bắt đi biệt tích (trang 195).

    Đau xót và thê thảm hơn là cái chết của những người tù bất khuất. Họ đã chọn cái chết để giữ gìn khí tiết của một quân nhân như trường hợp cuả Lê Quảng Lạc, Nguyễn Đức Điệp, Nguyễn Mậu, Huỳnh Văn Lượm, …

     

    Trong chương XII “Châu Về Hợp Phố”, những người tù được chuyển về Miền Nam ruột thịt. Họ đã được dân chúng đón tiếp bằng những cái vẫy tay, những nụ cười và những món quà tình nghĩa yêu thương, chia sẻ khiến người tù xúc động đến rơi nước mắt. Thì ra mọi người vẫn còn nhớ và yêu mến những người lính bại trận: .. “Người hai bên đường ném lên toa tàu tới tấp, thuốc lá, bánh mì, bánh chưng, bánh đúc, cam bưởi… Những món quà tình nghiã từ những bà mẹ, những em nhỏ buôn thúng bán bưng, từ những cậu con trai bỏ học nửa chừng để kiếm sống bằng những việc làm lam lũ…” (trang 307).

     

    Ở những chương cuối cùng, tác giả nói đến chương trình HO, sự xuất hiện của con chữ HO, ý nghiã và giá trị cuả nó đối với những người tù Miền Nam. Ông cũng thu thập chứng cứ, tài liệu, hình ảnh và mốc thời gian của cuộc thương thuyết giữa Hoa Kỳ và cộng sản Việt Nam trong việc thả tù nhân chính trị và cho họ cùng gia đình được định cư tại Hoa Kỳ.

     

    Nhà thơ Song Nhị đã gởi lại trên trang sách mình lòng biết ơn sâu sa đối với những vị ân nhân đã bền bỉ, bỏ thời gian, công sức và tâm trí để yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ can thiệp cứu giúp các QDCCVNCH thoát khỏi lao tù: “…Hành trình HO còn khởi đi từ  tấm lòng nhân đạo vô bờ bến của những con người đang sống yên lành trên nước Mỹ. Tôi muốn nói đến những nhân vật trong cộng đồng trong đó những vị ân nhân của người, của đời mà không ai quên được đó là bà Khúc Minh Thơ, Chủ Tịch Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, bên cạnh có các ông Nguyễn Ngọc Bích, Huỳnh Công Ánh, Nguyễn Hậu, Linh Quang Viên, Đào Văn Bình, Giao Chỉ… và nhiều cá nhân, tổ chức hội đoàn khác đã đóng góp công sức tài vật cho thành quả giải thoát những người tù cải tạo…” (trang 420).

     

    Trái với ý kiến của tác giả, năm vừa qua, bà Khúc Minh Thơ và ông Nguyễn Ngọc Bích đã bị đánh phá, lên án kịch liệt trên các liên mạng và gây ra sự đổ vỡ không ít trong cộng đồng. Có người tự hỏi “Tại sao có những người vô ơn đến như vậy? Và liệu không có sự vận động, đòi hỏi của những người có trái tim và lòng nhân ái thì chương trình HO có hình thành hay không?

     

    Tôi cũng xúc động khi đọc lá thư của Cựu Đại Tướng John Vessey và ông Robert Funseth. Hai ông đã bỏ thời gian gần10 năm và kiên nhẫn thương thuyết với đám Hà Nội, lật lọng, tráo trở, bất nhân để cứu hàng triệu người tù cải tạo.

     

    Có nhiều người nói với tôi rằng những chuyện cải cách ruộng đất ai cũng biết. Những chuyện tù cải tạo nhiều người viết rồi, nói mãi đâm chán chẳng ai thèm đọc, thèm nghe. Thế nhưng với “Nửa Thế Kỷ Việt Nam”, độc giả sẽ mở ra một cái nhìn mới, soi rọi lại một góc tối khác trong nhà tù cộng sản mà ta chưa biết đầy đủ. Từng chương, từng tiểu đoạn tưởng chừng như giống nhau, sự lập lại nhưng phong cách diễn đạt rất mới mẻ. Với cách trình bày khoa học, văn phong trôi chảy, nhẹ nhàng tác giả đã lôi cuốn người đọc từ trang đầu cho đến trang cuối.

     

    Quả thật, Song Nhị có tài làm thơ và có cả tài viết văn. Ông có kiến thức và đồng thời có tâm huyết, nghị lực. Có lẽ, chính cuộc sống dày dạn phong trần đã khiến ngòi bút của ông tuôn chảy như những dòng máu của hàng triệu người tù, của những giọt nước mắt đau khổ của toàn thể nhân dân Việt Nam từ Bắc tới Nam trong suốt nửa thế kỷ. Và hiện nay, nhà tù vẫn chưa khép lại. Nó vẫn mở rộng chào đón những người trí thức yêu nước, thương nòi mơ ước xây dựng một đất nước Việt Nam dân chủ, phú cường.

     

    Tôi có thể kết luận rằng “Trí thức, yêu nước và trong sạch” là kẻ thù của cộng sản.

     

    Phong Thu

    01/30/2010

     

  • Phê Bình

    Nhạc Sĩ Ngọc Loan : Từ thuở tôi mất em

    00000001.jpg

     

    Từ thuở tôi mất em

     Lâm văn Sang

    Nhạc sĩ Ngọc Loan vừa tung ra dĩa CD số 5, mang tên “từ thuở tôi mất em”. CD gồm 11 tình khúc được “chọn lọc” trong chiều hướng “tạo thành những âm thanh mới và đẹp” gửi đến cho mọi người. (*)

    Giống như dĩa CD đầu tay, (ra mắt cách nay bao nhiêu năm, dĩa CD không in năm tháng) “nhớ gì không em” được gọi một cách đơn giản, “tình khúc ngọc loan”, dĩa CD mới này cũng nằm trong tiêu chuẩn “tình khúc” đó.

    Một người nhạc sĩ viết tình khúc và xuất bản tới tập thứ 5, Ngọc Loan chắc hẳn có nhiều điều để nói và hơn thế nữa, không bao giờ nói hết điều mình muốn nói. Người nhạc sĩ viết tình khúc cũng như nhà thơ làm thơ tình, họ có bao giờ chấm dứt điều muốn nói? Hay chấm dứt điều muốn nói, đã được nói? Có phải nói là lập lại điều đã nói, một cách nào đó? Hay nói là mang đến một thứ ánh sáng mới, soi rọi lại điều đã nói? Xuất bản tới tập thứ 5, tác giả dường như không có vẻ gì sẽ ngừng lại ở đó.

    Vấn đề không phải là tác giả sẽ ngừng ở đâu hay bắt đầu lại thế nào mà là cô sẽ tiếp tục viết ra sao. Làm sao người ta có thể biết được điều này nếu không biết được tác giả thực hiện tác phẩm này (hay trước đây) ra sao. “Chất liệu” của tác phẩm đến từ “đời sống hợp cùng những cảm nhận trong thiên nhiên” đã tạo ra “những ý tưởng” giúp tác giả tạo ra những nhạc phẩm này. Nguyễn Du viết khi xưa, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ngày xưa có thể Nguyễn Du chỉ đi từ chỗ “lòng buồn” để thấy cảnh vật chung quanh cũng buồn. Ngày nay Ngọc Loan, ngược lại, có thể cảm nhận từ cái buồn của cảnh vật đến cái buồn của nhân thế. Cô tâm sự trước “Một buổi chiều bên bờ sông vắng của thành phố Antioch, dòng sông nước phẳng lặng, trời mưa ướt át trên một thành phố cũ & buồn…” để cô viết thành bài “chiều bên sông vắng” (Diệu Hiền hát) có những câu: “Nước vẫn trôi, trái tim vẫn buồn. Nắng vẫn cứ rơi, lòng người vẫn nặng nề.” Nhưng không phải chỉ có buồn. “Những giọt mưa rơi xuống trên ngọn cỏ xanh . . . Tất cả mọi thứ chung quanh đều trở nên xanh tươi, mới mẻ sau cơn mưa . . . Trời đất hình như vui hơn, muộn phiền hình như giảm bớt đi…” là điều cô cảm nhận để viết thành bài “mưa rơi” (Hồ Trung Dũng ca) có những câu: “Trong đất trời, một niềm vui mới đã sang. Trong tim người, một niềm tin mới tái sinh. Cho tim ta hy vọng bình yên mới. Trong ngày mai tươi sáng hơn. An vui kiếp người.” Người theo cảnh hay cảnh theo người? Cảnh trước người sau hay người trước cảnh sau? Tại sao ta chỉ tin theo tư tưởng một chiều? Tại sao ta cứ phải tin rằng một phải sâu sắc hơn hai hay ngược lại hai phải thấp hèn hơn một? Ở đây, Ngọc Loan có mới hơn Nguyễn Du? Nếu không mới, ít nhất cô cũng khác hơn Nguyễn Du.

    Nhạc gắn liền với người viết nhạc. Điều này còn có nghĩa nhạc bắt đầu bằng hiện tại; hiện tại ngay từ qua cách mô tả quá khứ hay một quá khứ kéo dài cho tới hiện tại (như nhạc phẩm “từ thuở tôi mất em” do Hồ Trung Dũng trình bày). Nhạc phẩm trở thành quá khứ (cách khác, cổ điển) khi nó (may mắn) còn sống (còn được hát) cho tới một hiện tại nào đó trong tương lai. Ước mơ của người viết nhạc (nhạc phẩm) là ước mơ nằm trong giới hạn (ngược chiều) từ hiện tại cho tới quá khứ đó. Làm cách nào người ta có thể biết (chắc) nhạc phẩm nào lọt vào danh sách “may mắn” kia nếu người ta không sống ở tương lai? Người ta chỉ có thể biết một số tiêu chuẩn “mới” được ứng dụng trong một số nhạc phẩm trong dĩa CD này có thể sẽ còn được ứng dụng trong tương lai (bởi nhạc sĩ khác), chẳng hạn như phần kết của nhạc phẩm sẽ là phần điệp khúc (đoạn giữa của nhạc phẩm) hơn là đoạn kết bình thường (người ta vẫn viết, nghe cho tới nay). Ở Ngọc Loan, bài “bỏ lại” (do Hồ Trung Dũng ca) là cái kết thúc bằng điệp khúc giữa này.

    Người không nghe nhạc thường xuyên thật khó theo dõi giọng ca nào đang lên, đang được ăn khách nhất bây giờ ở Việt Nam hay hải ngoại. Tôi tin Ngọc Loan là người sành sỏi về điều này hơn ai (tôi) hết. CD “từ thuở tôi mất em” mang đến lần này các ca sĩ như: Diệu Hiền, Hồ Trung Dũng, Lan Phương, Xuân Phú, Hạ Trâm, Mỹ Lệ. Tôi không biết (chưa nghe) một giọng ca nào trong số này, ngoại trừ Mỹ Lệ đã có mặt trong CD “tìm trong nỗi nhớ.” Tôi chỉ biết Hồ Trung Dũng hát 5 trong số 11 nhạc phẩm trong CD này, hình anh lại ở bìa ngoài của CD, anh phải là giọng ca sáng giá bây giờ, trong nước. Tôi không biết gì hết về Hồ Trung Dũng (bao nhiêu tuổi, đi hát bao lâu rồi…) tôi chỉ biết anh hát chững chạc như một người đứng tuổi. 

    Người ta có thể nói gì hơn nữa qua CD “từ thuở tôi mất em” này? Bài “chiều  bên sông vắng” tác giả đưa ra một câu hỏi lưng chừng “ta về phương nao.” Bài “ngày tháng vẫn qua đây” (Hồ Trung Dũng ca) tác giả hỏi lại lần nữa “mai biết về phương nao.” Bài “về đâu” (Mỹ Lệ hát) tác giả liên tục hỏi, trước hết “Về đâu người ơi?” và sau nữa “Một ngày sẽ đi về đâu?”. Một cách nào đó, những câu hỏi không cần đến câu trả lời là một nửa của câu hỏi. Người đặt câu hỏi (tác giả) có khi hỏi người, có khi hỏi thời gian. Người hỏi như nói chuyện cùng hư vô như một họa sĩ nói chuyện bằng tranh trừu tượng. Câu chuyện được nói (câu hỏi được hỏi) có khi không mang ý nghĩa nào cả, có khi mang trong tim cả đất và cả trời.

    Khi giới thiệu dĩa CD mới, tác giả đã chuẩn bị một chương trình ca nhạc được tổ chức tại Santa Clara Convention Center vào ngày Chủ Nhật, ngày 30 tháng Chín, lúc 4 giờ chiều. Chương trình mang tên “tình khúc Lê Uyên Phương, Ngọc Loan.”

    Lê Uyên xuất hiện lần này ở San Jose với tình khúc của Phương, và một số khác là nhạc Phạm Duy. Ngọc Loan sẽ có mặt với những ca khúc mới nhất (trong CD “từ thuở tôi mất em” dĩ nhiên) và một số nhạc phẩm đắc ý nhất của tác giả trong các CD trước.

    Góp mặt trong chương trình có ca sĩ Thanh Hà, và Trần Thu Hà. Mọi người đều biết họ là giọng ca như thế nào ở hải ngoại. Ngoài ra còn có các ca sĩ khác như Gia Huy, Nguyên Khang, Anh Tuấn. Gia Huy là ca sĩ gần đây vẫn hay hát nhạc Ngọc Loan. Anh cũng ra dĩa CD “Tình yêu & Kỷ niệm 6” mang tên “trong tôi có những” gồn 12 nhạc phẩm của Ngọc Loan.

    Chương trình còn mang tới ba MC: Khổng Trọng Hinh, Thụy Dung và Vân Khanh.

     Ghi chú:

    (*) Những trích dẫn trong bài rút ra từ trong CD “từ thuở tôi mất em” này.