• CHU LYNH (Vietnam Film Club),  Văn

    Thằng Kevin – Truyện Ngắn CHU LYNH

    Thằng Kevin

    Chu Lynh

    Chú Ngôn hích cùi chỏ vào tay Kevin. Nó giật mình mở mắt.

    • Tới đâu rồi chú? 

    Không trả lời, chú Ngôn chỉ cảnh biển bên phải. Nó la lên:

    •  Biển đẹp quá!

    Kevin hiểu ý chú Ngôn, lôi chiếc máy Canon gồ ghề ra khỏi túi xách.  Kevin vui ra mặt, nói đây là cảnh đẹp nhất nó bắt gặp từ ngày về Việt Nam.  Nó chê biển Vũng Tàu tạp nhạp, cảnh Suối Tiên giả tạo, phố xá Sài Gòn ô nhiễm.  Coi bộ thằng nhỏ mê chụp hình giống chú hồi đi lính, về hậu cứ hay ngoài mặt trận, lúc nào cũng kè kè chiếc máy Petri bên mình.  Mà thiệt, hình nó chụp cái nào cũng có góc cạnh độc đáo.

    Biển một màu xanh biếc, lặng im với vài chiếc tàu lẻ loi xa xa.  Bên đường lộ, là một cơ sở du lịch, lèo tèo vài chiếc xe hơi, không có dấu hiệu hoạt động tấp nập.  Khu du lịch này tương phản với những xóm dân cư vừa đi qua với màu đất khô cằn, nhà cửa nghèo nàn, dân chúng khắc khổ.  Nó nói chụp trên xe khó mà có hình nghệ thuật, chuyến về cho nó xuống biển mới có dịp trổ tài.

    Bỗng chiếc xe đò giảm tốc độ rồi đột ngột thắng gấp.  Hành khách chúi đầu về phía trước sắp đụng vào ghế xe. Xe gặp tai nạn?  Trời đất, ngay giữa lộ, một thằng bé non choẹt thản nhiên ra hiệu cho xe đò quẹo vào bên trái.  Thằng Kevin buột miệng kêu lên:

    •  Oh My God! Cảnh sát giao thông Việt Nam là một thằng nhóc!

    Thằng bé khoảng 12 tuổi khoát tay điệu nghệ như một cảnh sát công lộ.  Tài xế như đã quen thuộc, lái xe vào bãi đất trống trước mặt một cái quán. Trong sân đã có hai chiếc xe đò. Một thanh niên từ trong quán chạy ra cài lại hàng rào kẻm gai, y như người lính bảo vệ đồn thời chiến. 

    Quán Thùy Dương.  Bảng hiệu màu sắc lòe loẹt tương phản với cái tên.  “Chào mừng quý khách, cà phê, giải khát, điểm tâm, cơm, các món nhậu, có lẩu dê, đặc biệt nem nướng Ninh Hoà, phục vụ tận tình, giá đặc biệt, kính mời”. Bà chủ xela lớn:

    –  Bà con xuống xe ăn cơm.  Xuống hết nghe!

    Chú Ngôn cúi xuống sàn xe tìm cặp nạng. 

    –  Đây là đâu chú?

    –  Gần tới Cam Ranh.  Xuống xe mày.

    –  Làm gì chú?

    –  Vào ăn cơm.

    –  Cháu không đói.

    –  Không đói cũng phải vào.

    –  Cháu muốn ngồi trên xe.

    –  Mày ngồi trên xe, mấy thằng lơ hỏi thăm mày liền.

    –  Tại sao?

    Chú Ngôn không trả lời. Nó cũng không hỏi nữa.  Trên xe đò từ Sài Gòn ra Trung thăm bà ngoại, cái thằng cháu ba mươi tuổi luôn miệng hỏi.  Đôi khi chú gắt lên:

    •  Cái xứ sở này là vậy, không có gì là vô lý cả!

    Xe ngừng, không khí trong xe càng ngột ngạt.  Hành khách dành nhau xuống xe. Cái nạng cũng giúp chú Ngôn một chút ưu tiên.  Kevin đưa tay đở chú, nhưng bị gạt đi:

    – Tao đi một mình được rồi.

    Nói vậy nhưng chú cũng để nó dìu đi.

    – Mày chưa thấy mấy thằng ăn xin ở Sài Gòn.  Cụt hai chân, đít lót vỏ xe, băng qua đường bằng hai tay còn nhanh hơn người thường.  Xẹt một cái, đu theo xe buýt như trong gánh xiếc.

    – Họ là những anh hùng.

    – Anh hùng mẹ gì.  Kiếm ăn là bất chấp.  Mấy năm trước tao cũng bầm dập như họ.  Tụi bây không gởi tiền về, không đi bán vé số tao cũng đi ăn xin.

    Thằng Kevin bỗng nhìn chú với ánh mắt lạ.  Trong những thằng cháu từ Mỹ về, chú thích nhất thằng Kevin, bởi nó là thằng duy nhất biết nói tiếng Việt, mà nói sành sõi.  Chú nói với mọi người, nó không phải dân Mỹ mà là thằng da vàng mủi tẹt chính gốc a na mít.  Chú không kêu nó là Kevin mà một hai đều Út, coi như con nít.

    Về Sài Gòn lần đầu, nó theo chú đi khắp hang cùng ngõ hẻm.  Nó khoái đi xe ôm hơn taxi.  Nó nói đường phố Sài Gòn con gái toàn là nurse, con trai là pilot.  Mới đầu chú không hiểu, sau ngẫm ra mới thấy thằng này cũng mang máu khôi hài đen của dòng họ Phan.  Nó nhìn người Sài Gòn qua cái khẩu trang và cái nón bảo hiểm! 

    Nó có thể ngồi trên gác nhâm nhi cốc rượu thuốc để nghe chuyện đời lính ngang dọc của chú.  Nó ít nói, thích quan sát và hay tò mò.  Cái gì nó hỏi đừng hòng lẫn tránh, phải có câu trả lời thỏa đáng cho nó.

    Nó bắt chú dẫn ra Trung thăm ngoại, quên béng đi chú là phế binh một giò khập khiễng với cặp nạng cũ mèm từ năm 1972.  Xem ra nó khác với những thanh niên về nước.  Nó không kiểu cách, khoe khoang.  Cái gì cần là nó sẵn sàng chi, không cần là một xu cũng không bỏ ra.  Ngoài cái tánh tò mò, chú nghĩ thằng Út quan tâm đến chuyện gì đó khi về nước.  Nó hỏi như một người ngây ngô nhưng chú tin đầu óc nó không ngây ngô chút nào.  Có phải đó là cách biểu lộ học được ở người Mỹ hay tại bản tánh nó?

    Hai chú cháu đã vào trong quán.  Quán Thùy Dương ồn ào như cái chợ, kẻ kêu thức ăn, người kéo ghế, một nhóm khác múc nước rửa tay chân.  Đằng sau quầy thức ăn và một nồi cơm to tướng, một người đàn bà mập phì phà điếu thuốc đầu lọc.  Thấy khách vào, bà giục điếu thuốc xuống đất, đưa chân chà đi chà lại.  Một cô gái ăn mặc theo lối nhà quê đến bàn chú Ngôn đưa cái khăn cũ lau xẹt xẹt mấy cái rồi hỏi:

    – Mấy chú ăn gì?

    Chú Ngôn đưa mắt nhìn Kevin.

    – Mày phải ăn một cái gì. Hơn tiếng nữa mới tới nơi.

    Kevin lắc đầu, kêu chai nước suối.  Chú Ngôn kêu đĩa cơm sườn và một ly trà đá lớn.  Hai chú cháu cùng nhìn qua chiếc bàn tròn lớn bên cạnh.  Bà chủ xe, tài xế và hai lơ xe được hai người bồi chăm sóc chu đáo, trong khi các bàn khác mạnh ai nấy ăn uống.  Chú Ngôn hỏi thằng Út:

    – Mày biết tại sao tài xế kêu hành khách phải vô hết trong quán không?

    – Cháu không biết?

    – Mày không biết là phải, nhưng hành khách ai cũng biết.  Chủ xe thích ăn quán nào là biểu tài xế tắp vào.  Hồi nãy mày không thấy tụi nó lấy kẻm gai vây kín lại, không cho ai ra khỏi khu vực.  Chủ quán chơi đẹp với ê kíp xe đò, bao luôn cả lơ xe.  Họ kêu đồ ăn thả giàn, uống bia Heineken, hút thuốc ngoại.

    – Cháu hiểu rồi.  Hành khách sẽ trả tiền cho họ?

    –  Mày thông minh.  Chủ quán sẽ chặt đẹp hành khách.  Mấy ông nhà quê đem theo bánh mì cũng phải mua một cái gì đó, nếu không sẽ lôi thôi.

    Bà chủ xe mặc đồ mousselin mỏng dính, tay kè kè túi xách đựng tiền.  Trên tay bà óng ánh đồ trang sức nặng chịch.  Bà đang lớn tiếng thuật lại đêm qua tên quản lý thị trường đến khám xe bà đang chất hàng ở Ngã Sáu.  Bà chửi thề ngọt xớt.  Hằng tuần bà đóng hụi chết cho cả đám, vậy mà lâu lâu lại kiếm chuyện kiếm chác thêm. 

    Tài xế lầm lì ngồi ăn không nói, hai thằng lơ hì hục ăn như chưa bao giờ được ăn ngon. 

    Ra đi lúc ba tuổi, Kevin giữ trong trí nhớ một Việt Nam lờ mờ.  Bây giờ nó chạm mặt thực tế mới thấy cái xứ sở này nhiều điều kỳ lạ không hiểu nổi.  Nó muốn tự tìm hiểu.  Kevin tự nhiên quên đi không khí ồn ào trong quán, đưa cặp mắt đảo một vòng quán ăn như chiếc máy đang quay phim phóng sự.  Có cái gì độc đáo ở đây mà hắn không thấy ở Sài Gòn. 

    Cô gái mang đồ ăn ra rồi biến vào trong.  Kevin bỗng nghe gần cửa ra vào giọng một ông già:

    –  Bà chủ. Cho đổi tô bún. 

    Một cô gái mặc áo bông sặc sỡ từ trong quầy hàng tiến lại.

    –  Gì mà ông la dữ dzậy?

    –  Không la làm sao cô tới? Tô bún này thiu rồi.  Đổi tô khác.

    –  Này ông già.  Hồi sáng tới giờ khách ăn hà rầm, có ai kêu ca gì đâu? 

    Người đàn bà mập bỏ nồi cơm chạy lại.  Cô gái phân bua:

    –  Má coi, ông già này cứ nói mình làm bún thiu cho ổng ăn.

    Người đàn bà chỉ ngón tay trỏ vào mặt ông già:

    –  Này ông anh, quán này uy tín, chưa bao giờ bán đồ thiu.

    –  Bà ăn tô bún này sẽ biết.  Mấy người lấy tiền trước, rồi thảy cho khách đồ thiu.        

    –  Ông ăn nói đàng hoàng nghe.  Tôi nễ ông già rồi, không muốn chuyện lôi thôi.

    –  Bà mới là người kiếm chuyện! Không đổi tô khác thì trả lại tiền cho tôi!

    –  Ông không ăn thì ráng chịu. Không trả lại tiền!

    Trước thái độ quyết liệt của bà chủ, ông già tức tối.

    –  Đem vô trong cho cả nhà tụi bây ăn

    –  Ông cà chớn vừa thôi nghe!

    Vừa lúc đó, một tay anh chị bặm trợn, không biết từ đâu đến bên bà chủ quán

    –  Chị Bảy để em.

    Kevin chỉ kịp nghe tay anh chị lớn tiếng “Ê ông già giỡn mặt hả” là thấy ông ngã cái rầm xuống nền xi măng.  Hắn cầm ngay tô bún thiu đổ ụp lên đầu ông già.  Lúc này tài xế với bà chủ quán đến năn nỉ tên du đảng.  Hắn cứ sấn tới, nhưng bà ôm nó vào trong.  Bà còn quay lại chưởi hùa theo mấy câu. Hành khách tiếp tục ăn uống, không màng đến chuyện ông già bị nạn. 

    Ông già bỗng đứng dậy, làm như cú đấm của tay anh chị không nhằm nhò gì.  Nhưng một bên mặt sưng lên thấy rõ, mắt phải híp lại.  Thằng ác ôn chơi ngay gần con mắt.  Một tay che mắt, một tay chỉ mặt bà chủ, ông hét lên:

    –  Nghe cho rõ đây. Tụi bây mở quán để ăn cướp, nuôi du đảng để lột tiền khách đi đường.  Thí cho tụi bây mười ngàn.  Ăn cho cố rồi ỉa ra, ăn vô trở lại.

    Đột nhiên tay anh chị quay trở lại, nhanh như chớp tung cú đấm thứ hai vào mặt trái ông già. Quá bất ngờ, tài xế và bà chủ xe chỉ biết ôm chặt tên anh chị.

    –  Bỏ qua đi chú mày, chấp chi ông già khùng.

    Ông khách già gần như bất động trên nền nhà. Rất nhanh, Kevin bật dậy khỏi ghế nhào đến đở ông già ngồi lên. Máu mủi trào ra, má trái sưng bầm lên. Nếu ở bên Mỹ, Kevin sẽ gọi cảnh sát ngay để đưa bệnh nhân đi cấp cứu. Nhưng đây là Việt Nam, nó không biết phải làm gì. Nó mở ngay ba lô lôi ra cọc napkin, tìm cách cầm máu cho ông già.

    Thấy nguy kịch, bà chủ xe bảo Kevin đưa nạn nhân ra xe.

    Chú Ngôn đã theo dõi việc làm của thằng cháu. Thằng Kevin không ngây ngô như chú nghĩ.

    Hành khách lục tục lên xe. Ông già ngất đi. Xe chạy được một lúc thì ông tỉnh lại. Ông nói không sao, nhưng Kevin biết chắc khi đến Nha Trang, người ta phải đưa ông nhập viện. Chú Ngôn xoay qua thằng cháu:

    –  Ông già nói đúng.  Mấy quán cơm vùng này đều có du đảng bảo kê.  Không phải người dân nào cũng được mở quán.  Không có công an đở đầu, đừng hòng làm ăn.  Ở đây xài luật rừng.  Tao còn hên hơn ông già, cơm không thiu.  Mày cũng hên, không ăn gì.

    –  Bộ ở đâu cũng vậy sao chú?

    –  Rừng nào cọp đó. Nhưng chuyện này chưa đến nỗi nào.  Ra ngoài Bắc còn ớn lạnh hơn.  Du đảng trong Nam là thứ du đảng bề nổi, khôn khéo có thể tránh được. Du đảng ngoài Bắc nhẹ nhàng nhưng rất thâm hiểm. Mày không thỏa mãn nó là hết đường chạy.  Nó lột sạch. 

    Tao đã đi buôn ngoài Vinh một chuyến với mấy cô mày.  Một chuyến đi kinh hoàng, về tao tởn luôn.  Tụi nó ăn cướp có tổ chức, có ăn chia với công an trên tàu.  Tụi nó lên tàu điểm mặt người đi buôn và ép mua lại hàng với giá rẽ.  Mấy cô mày không chịu, cứ tưởng đưa hàng tận nơi được giá hơn.  Ai ngờ đến Vinh, đứng từ trưa tới chiều không mống nào ngó đến.  Cuối cùng phải bán lại cho tụi nó với giá rẻ mạt.  Riêng tao còn bị tụi nó xin tiền ăn phở, tao nói không có, bị lột sạch không còn một cắc.

    –  Cháu không hiểu tại sao ông già bị đánh.  Ông chỉ muốn chủ quán đổi tô bún.

    –  Quán mở ra để vét tiền hành khách, không phải để phục vụ.

    Kevin lẩm bẩm.

    –  Not fair! 

    –  Ở Việt Nam bây giờ không chỗ nào fair cả. Cái xứ sở này ở đâu cũng đáng sợ.  Sợ dao du đảng, sợ hàng xóm nổi máu giang hồ, sợ công an phường làm tiền, sợ mất chỗ làm, sợ chính quyền lấy đất… Sợ đủ thứ. Đâu cũng có côn đồ du đảng. Tao nói du đảng đây là bao gồm cả công an, cán bộ. Tụi nó là siêu du đảng.

    Kevin im lặng một lúc rồi buông một câu:

    –  Cháu muốn bảo lãnh chú qua Mỹ.

    –  Tao không muốn đi Mỹ. Mày gởi về chút đỉnh để tao chăm sóc mồ mả ba mày là được rồi.

    Chú Ngôn nhìn kỹ Kevin một lúc lâu khiến nó ngạc nhiên. Nó đoán chú nó sắp có câu hỏi quan trọng.

    •  Nói thật đi, mày dấu tao chuyện gì phải không?
    •  Sao chú lại hỏi câu đó?
    •  Mấy ngày nay tao muốn hỏi mày, nhưng chuyện mày làm với ông già vừa rồi, tao muốn mày nói thật. Mày về thăm tao nhưng mày còn có chuyện gì khác nữa?
    •  Cháu chỉ muốn giúp ông già cầm máu thôi.
    •  Tuần trước, mày đi đâu hai ngày?

            Như chột dạ, Kevin làm thinh. Chú Ngôn đáng nễ thiệt. Một lúc sau nó mới từ tốn nói:

        – Cháu nghĩ chưa đúng lúc để nói với chú. Cháu có một số bạn trẻ ở Việt Nam thường xuyên liên lạc với nhóm của cháu bên Mỹ. Công việc của tụi cháu rất đơn giản là tạo nên một ảnh hưởng tốt trong cuộc sống của một số bạn trẻ trong nước, khởi từ tình bạn, tình gia đình đến xã hội, tôn giáo. Cháu không có tham vọng thấy kết quả việc mình làm, cũng không có tham vọng mở rộng số bạn trẻ đi xa hơn, nhưng tin rằng việc làm tốt sẽ đóng góp hay ảnh hưởng tốt đến xã hội.

          Mầy không sợ công an trà trộn vào tổ chức?

    • Tụi cháu không là một tổ chức, không có danh xưng, cho nên không ngại công an trà trộn. Chú muốn nghe tiếp không?
    • Mày cứ nói, tao không ngắt lời là mày hiểu.
    •  Nhờ họ, cháu nắm bắt được tình hình ở Việt Nam nhanh hơn truyền thông bên Mỹ. Có những thứ tụi nó hiểu rộng hơn cháu nghĩ, có lẽ đa số có thân nhân ở hải ngoại hay là gia đình thuộc chế độ cũ. Cũng có một số du học sinh tham gia. Có những cuộc họp mặt để training vể kỹ thuật, để tổ chức cứu trợ thương phế binh của Việt Nam Công Hoà và cả bộ đội miền Bắc. Có chuyện này nhờ chú giúp.
    • Cứ nói.
    • Chú cứ chống nạng đi các con hẻm tìm gặp những đứa bé bỏ học bán vé số hay lượm ve chai, chọn khoảng mười đứa nghèo khổ nhất. Tụi cháu sẽ giúp tụi nó đi học trở lại.
    • Tiền bạc đâu để giúp hết những đứa trẻ bất hạnh?
    • Nhóm gồm những đứa có job ổn định. Đa số tụi nó nằm trong các tổ chức tôn giáo hay các hội từ thiện. Tụi cháu thỉnh thoảng cũng đi rửa xe gây quỹ giúp các quán cơm từ thiện ở Sài Gòn. Giúp được bao nhiêu tuỳ khả năng của mình. Phần còn lại Trời sẽ giúp.
    • Ăn cắp câu này ở đâu vậy thằng nhóc?
    • Ăn cắp của mẹ.
    • Mầy làm chuyện này bao lâu rồi?
    • Cũng gần năm năm.
    • Ai xúi mấy làm?
    • Mẹ cháu. Mẹ không xúi, chỉ đưa ra một số việc làm thiện nguyện để cháu chọn lựa.

          Chú Ngôn nghĩ về gia đình. Kevin sinh đầu tháng tư năm 75  lúc ba nó đang quyết tử với Bắc quân tại trận Xuân Lộc những ngày cuối cùng trước khi có lệnh buông súng. Ba nó sống sót tìm cách ra đi nhưng bất thành. Thoát chết trong chiến tranh nhưng ông lại ra đi vì bị hành hạ trong trại tập trung ngoài Bắc. Lúc đó Kevin mới ba tuổi, nên mẹ nó không thể dẫn đi thăm ba nó trong tù. Nó gần như không có kỷ niệm thời thơ ấu về người cha của mình.

    • Mẹ cháu nói cuộc sống giá trị bằng việc làm hơn là đi chùa nhiều lần. Gia đình mình yên ổn bên Mỹ, nhưng trẻ em Việt Nam thì bươi rác, bán vé số, làm thuê làm mướn để sống qua ngày. Sau những giải thích của mẹ, cháu biết mình phải làm gì. Cháu làm việc này vì ba cháu, một người lính chiến đấu đến cùng. Chịu đựng trong tù mà không đòi hỏi gia đình chu cấp gì trong các đợt thăm nuôi. Chết vì kiệt sức trước sự tra tấn của cán bộ tù. Với cháu, ông là một anh hùng!

         Một khoảng im lặng.

         Không biết Kevin đang nghĩ gì, riêng Chú Ngôn thì hồi tưởng đời quân ngũ của mình. Bị thương ở mặt trận An Lộc năm 1972, nơi mà chú nói mỗi thước vuông là mỗi quả pháo của Việt Cộng.  Một quả rớt ngay hầm phòng thủ, hai thằng bạn biệt kích 81 đi đong, chú may mắn sống sót nhưng sau đó phải cưa một giò.  Chú nói không tiếc cái giò mà tiếc cái ba lô đựng những tấm hình chụp công phu về chiến trường An Lộc.

    Chú không bị đi tù, nhưng gia đình chú khốn đốn sau ngày mất nước.  Ngày xưa, trong khi cha của Kevin thi đậu xong Tú Tài II là nhảy vô Võ Bị Đà Lạt, còn chú cứ nhẫn nha học Văn khoa.  Đùng một cái, chiến sự leo thang, chú nổi hứng đầu quân vào Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù.  Giải ngũ năm 1972, chú sống lây lất nhờ viết cho vài tờ báo.  Sau năm 1975, số phận chú còn thê thảm hơn.  Tay chân lành lặn còn xấc bấc xang bang, huống hồ chú chỉ một giò.  Chú đi làm phụ hồ, đào giếng, làm bất cứ gì để sống qua ngày.

    Nghe thằng cháu tâm sự, chú Ngôn thực sự xúc động. Chú tự hào về ba nó, cũng tự hào về thằng cháu.

    • Chú Ngôn! Sao làm thinh vậy?
    • Tao đang nhớ … ba mày. Mày nói đúng. Ba mày là một anh hùng. Mày cũng … giống ba mày.
  • Văn

     ĐA THỌ ĐA KHỔ – Truyện Ngắn HOÀNG HẢI THỦY

    Ông H H.Thủy khi qua Mỹ ở San Jose. Chúng tôi có nói chuyện trên TV đài Tự do cùng với tác giả Mưa Saigon, mưa HaNoi.

    Tưởng như không bao giờ chết. Bây giờ cả 2 ông đều đi xa. Đọc văn ông Thủy rất vui nhưng thật buồn.

    Xin chuyển vui buồn cho các bạn

    Giao Chỉ Vũ Văn Lộc

                ĐA THỌ ĐA KHỔ

                                            Hoàng Hải Thủy

    Người Tầu có thành ngữ Ða thọ đa nhục” : Người sống lâu bị nhục nhiều. Ông cha tôi – các ông Việt ngày xưa – hay dùng thành ngữ “Ða thọ đa nhục”.

    Tôi không cho là người già bị nhục. Tôi thấy người ta càng nhiều tuổi càng khổ. Khổ vì không còn hưởng thụ gì được sự đời mà phải chịu những bệnh tật do già yếu sinh ra : Người già không tự lo được cho thân mình, mắt mờ, tai điếc, trí nhớ mất, sống nhờ người khác. Người già vua chúa hay cùng đinh, tỷ phú hay anh nghèo rớt mùng tơi một xu dính túi không có, kẻ quyền uy chấn động thế giới một thời hiển hách, hay anh phó thường dân cả đời cơm nhà, quà vợ, khi tuổi già đến đều có những nỗi khổ như nhau.
     
    Người ta qua 60 tuổi được kể là già. Ở Việt Nam những năm 1940 – 1950 người 50 tuổi được gọi là cụ. Khổng Tử chỉ nói về Người đến tuổi 70 : “Thất thập nhi tùy tâm sở dục”. Tôi nghĩ ông muốn nói : “Người bẩy mươi tuổi muốn làm gì thì làm”. Nhưng người bẩy mươi tuổi còn làm gì được nữa. Người bẩy mươi cả Bốn Tứ Khoái đều không hưởng được, không làm được.
     
    Năm nay – 2013 – tôi tám mươi tuổi. Một ngày đầu Xuân Kỳ Hoa Ðất Trích 2013, tôi viết bài này. Năm 2000, khi chia tay nhau lúc nửa đêm ở trước một Nhà Dành Cho Người Già Thu Nhập Thấp – Housing for Old Seniors Low Income – ở San Jose, ông bạn già của tôi nói : “Ðọc những bài viết của toa để nhớ, để thương Sài Gòn của chúng ta”. Ông cầm tay tôi nói : “Viết. Viết nữa. Viết đến năm toa tám mươi. Viết cho bọn moa đọc”. Ðêm mùa đông San Jose lạnh giá bao quanh chúng tôi khi chúng tôi từ biệt nhau, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối.
     
    Năm 2000 tôi 68 tuổi. Ông bạn HO già hơn tôi năm, sáu tuổi, tôi không biết hôm nay ông còn ở cõi đời này hay không. Thời gian và không gian làm chúng tôi không biết nhau sống chết ra sao. Tám mươi tuổi tôi vẫn viết. Tôi không còn viết phóng tác truyện dài. Tôi viết những bài như bài này.
     
    Thời gian Sống, Yêu và Viết của tôi không còn bao lâu nữa, nên với nỗi Buồn vì phải xa mãi những người tôi yêu thương, hôm nay tôi viết những dòng chữ này.

    o O o

    Tôi bị ám ảnh bởi cái Chết, tôi ghét Chết, tôi sợ Chết, tôi không muốn Chết. Không phải bây giờ trong tuổi già, tuổi gần đất, xa trời, tôi mới sợ Chết, tôi sợ Chết từ những năm tôi năm, sáu tuổi, khi tôi bắt đầu biết suy nghĩ.


    Nhà tôi ở cuối thị xã Hà Ðông, nhà có lầu, tiếng Bắc là nhà gác, nhà hai tầng. Trên gác nhìn ra tôi thấy cánh đồng với những nấm mồ rải rác trong những ô ruộng, ở gác sau nhìn ra tôi thấy Nhà Thương Hà Ðông và bãi tha ma ở cuối Nhà Thương. Những đêm mưa tôi thấy những chấm lửa lập lòe trong bãi tha ma. Về sau tôi biết đó là những ánh đèn của những người đi soi bắt ếch. Những năm xưa ấy tôi tưởng đó là những đốm lửa ma trơi.


    Năm tôi năm, sáu tuổi, mẹ tôi 27, 28 tuổi. Tôi sợ mẹ tôi chết, người ta đem mẹ tôi ra chôn ở ngoài đồng. Mẹ tôi phải nằm một mình giữa cánh đồng vắng, lạnh, cô đơn, nơi mẹ tôi nằm ngập nước, đêm đông, mưa phùn, gió bấc, mẹ tôi khổ biết chừng nào. Ðó là nguyên nhân thứ nhất làm tôi ghét Chết, tôi sợ Chết.
     
    Mời bạn đọc một chuyện Sống, Yêu và Chết tôi thấy trên Internet.

    * Trong phiên xử ở Tòa Án Phoenix, Arizona, bị cáo là Ông George Sanders, 86 tuổi, bị xử vì tội giết vợ. Tất cả mọi người có mặt tại tòa, từ công tố viên đến chánh án, kể cả con cháu của kẻ bị cáo, đều thấy bị cáo phạm tội giết người, nhưng tất cả đều cho rằng đây là trường hợp pháp luật nên thông cảm, thương hại, tha thứ hơn là trừng phạt kẻ có tội. Anh cháu của bị cáo George Sanderss nói trước tòa :

          – Ông tôi sống để thương yêu bà tôi. Suối đời ông tôi làm mọi việc để bà tôi có hạnh phúc. Mối tình của ông bà tôi là mối tình lớn. Tôi tin ông tôi bị bắt buộc phải làm việc ấy vì yêu thương bà tôi, bà tôi chịu đau quá nhiều rồi, ông tôi không thể để bà tôi chịu đau nhiều hơn nữa.

    Ông Sanders bị bắt Tháng Bẩy năm 2012 sau khi ông nói với cảnh sát bà Virginia, vợ ông, 81 tuổi, xin ông làm bà chết. Vì ông Sanders nhận tội nên tòa án không dùng đến đoàn bồi thẩm, nhưng ông vẫn có thể bị kết án đến 12 năm tù.

    Bà Virginia bị bệnh nan y năm 1969, bà liệt bại, bà phải ngồi xe lăn. Năm 1970, ông bà sang sống ở Arizona vì khí hậu ở đây ấm nóng. Ông Sanders là Cựu Chiến Binh Thế Chiến II. Ông là người nuôi và săn sóc bà vợ. Ông nấu ăn cho bà, làm mọi việc trong nhà. Mỗi sáng ông giúp bà trang điểm, mỗi tháng ông đưa bà tới Nhà Thẩm Mỹ để bà làm tóc, làm móng tay.

    Năm tháng qua, sức khoẻ của ông Sanders suy mòn. Ông phải đặt máy trợ tim, ông không còn săn sóc chu đáo được bà. Rồi bà Virginia bị ung thư phá ra ở chân, bà phải vào một Nursing home để người ta lo cho bà sống qua những ngày tàn cuối đời. Ông Sanders nói với những viên chức điều tra :

          – Ðây là giọt nước làm tràn ly nước. Virginia nhất quyết không chịu vào Nursing home. Vợ tôi tự cắt những ngón chân bị ung thối.

    Ông nói :

          – Vợ tôi xin tôi cho bà ấy chết. Tôi nói tôi không thể.

    Vợ tôi nói :

          – Anh làm được mà. Em biết anh làm được.

    Sanders cầm khẩu súng lục, ông lấy khăn bông quấn ngoài khẩu súng, nhưng ông không sao bóp cò súng được. Ông kể :

          – Vợ tôi nói : Bắn đi anh. Cho em đươc chết.

    Tôi nói lời cuối với vợ tôi :

          – Em sẽ không cảm thấy đau.

    Và :

          – Anh yêu em. Vĩnh biệt em. Tôi nổ súng. 

    Trước toà, người con trai của ông Sandsers nói :

          – Tôi muốn quí toà biết rằng tôi yêu thương mẹ tôi, tôi cũng yêu thương bố tôi như thế.

    Steve Sandes, anh con, nghẹn ngào kể :

          – Bố tôi yêu thương mẹ tôi trong 62 năm. Những đau đớn thể xác và việc chịu đau vô ích đã làm bố mẹ tôi đi đến quyết định ấy. Tôi không kết tội bố tôi. Với tôi bố tôi là người tôi cảm phục nhất.

    Ông già George Sanders chỉ nói trong khoảng một phút, giọng ông run run :

          – Tôi gặp Viginia năm nàng 15 tuổi, tôi yêu nàng từ năm nàng 15 tuổi. Tôi vẫn yêu nàng khi nàng 81 tuổi. Có nàng làm vợ là một ân phúc Thiên Chuá ban cho tôi. Tôi sung sướng được chăm sóc nàng. Tôi làm theo ý muốn của nàng. Tôi xin lỗi các vị vì vợ chồng tôi mà các vị phải bận lòng.

    Ông Công tố đề nghị ông Chánh án không phạt tù giam George Sanders, ông nói tòa nên xử án treo. Ông Chánh án John Disworth nói ông đặt nặng tình nhân đạo trong vụ án này. Ông nói :

          – Bị cáo phạm tội giết người, nhưng được tòa giảm nhẹ mức án.

    Ông tuyên phạt ông già George Sanders 2 năm tù treo. Tù treo không bị cảnh sát kiểm soát.

    o O o

    Chuyện ông bà Sanders làm tôi suy nghĩ lan man. Tôi nhớ chuyện Cái Bát Gỗ tôi đọc những năm tôi 10 tuổi. Anh con thấy ông bố già run tay, khi ăn hay đánh rơi bát cơm, bát vỡ. Anh làm cái bát bằng gỗ cho ông già ăn cơm. Ông có làm rơi bát, bát gỗ không bị vỡ. Một hôm anh thấy thằng con nhỏ của anh hí hoáy đục đẽo một cục gỗ, anh hỏi nó đục gỗ làm gì, con anh nói : “Con làm cái bát gỗ, để khi bố già, con cho bố ăn cơm”.

    Chuyện – dường như – ở trong sách Quốc Văn Ðộc Bản – đã 70 năm tôi không quên nó – nó đây là chuyện Cái Bát Gỗ – nhưng chẳng có dịp nào tôi nhớ nó. Hôm nay tôi nhớ nó. Từ sau năm 1975 ở Hoa Kỳ Nhà Xuất Bản Xuân Thu in lại tất cả những sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư. Nhưng sách Quốc Văn Ðộc Bản – sách có nhiều bài thật hay – thì không thấy in lại. Tôi không biết tại sao Quốc Văn Ðộc Bản không được in lại ở Hoa Kỳ. Tôi đã đọc lại tất cả những sách Giáo Khoa Thư được in lại ở Hoa Kỳ, tôi muốn đọc lại những bài trong Quốc Văn Ðộc Bản.
     
    Tôi nhớ lâu rồi, từ những năm 1950 khi tôi chưa gặp Tình Yêu Vợ Chồng, tôi đọc trên trang sách nào đó lời một ông Tầu viết :

          – Vợ chồng như hai con chim tình cờ cùng đậu trên một cành cây. Ðến lúc phải bay đi, mỗi con bay đi một phiá.

    Năm xưa còn trẻ, tôi muốn phản đối lời diễn tả trên. Ông Tầu muốn nói vợ chồng là chuyện ngẫu nhiên, chẳng có tình nghĩa gì giữa vợ và chồng. Hôm nay tôi mới dịp viết ra lời phản đối.


    Ông bác sĩ điều trị cho vợ chồng tôi mỗi tuần một ngày vào chẩn bệnh cho những ông bà già trong một Housing for Old Seniors – Housing này có nhiều ông bà già Mỹ trắng – ông nói :

          – Có những cặp vợ chồng về già không nhìn mặt nhau.

    Lời kể của ông làm tôi buồn. Vợ chồng sống với nhau đến già, ở chung một nhà già – mỗi người một phòng – sắp ra nghĩa địa, sắp vào hũ sành mà thù hận nhau đến không nhìn mặt nhau ? Thù hận gì dữ dội đến thế ? Những người ấy thật khổ.
    Bát đại khổ não ghi Tám Nỗi Khổ Lớn của con người :

          – Sinh, Lão, Bệnh, Tử : 4 Khổ ai cũng phải chịu.

          – Muốn có mà không có : Khổ 5

          – Có mà không giữ được : Khổ 6.

          – Yêu nhau mà không được cùng sống : Khổ 7.

          – Ghét nhau mà phải sống gần nhau : Khổ 8.

    Có người chỉ phải chịu có 7 Khổ. Ðó là những người không yêu ai cả.
    Nhiều người Việt phải chịu cả 8 Khổ. Ðó những người thù ghét bọn Việt Cộng mà cứ phải sống với bọn Việt Cộng.

    o O o

                                                      Mùa thu mây trắng xây thành,

                                                      Tình Em mây ấy có xanh da trời.

                                                      Hoa lòng Em có về tươi,

                                                      Môi Em có thắm nửa đời vì Anh ?

    Tôi làm bài thơ trên Tháng Bẩy năm 1954 ở Vũng Tầu, ngày chúng tôi yêu nhau. Cuộc Tình của chúng tôi đã dài trong 60 năm. Cuộc Tình Vợ Chồng. Trong cuộc đời Tám Khổ này, nàng và tôi chỉ phải chịu có Bẩy Khổ. Năm 1979 nằm phơi rốn trong Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, nhớ Nàng, tôi làm bài thơ :

                                                     Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,

                                                     Hai mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.

                                                     Từ xanh đến bạc mái đầu,

                                                     Tình ta nước biển một mầu như xưa.

                                                     Yêu bao giờ, đến bao giờ,

                                                     Thời gian nào rộng cho vừa Tình ta.

                                                     Hoa lòng Em vẫn tươi hoa,

                                                     Môi Em thắm đến Em già chưa phai.

                                                     Yêu kiếp này, hẹn kiếp mai,

                                                     Ngàn năm yêu mãi, yêu hoài nghe Em.

                                                     Mặt trời có lặn về đêm,

                                                     Sớm mai Em dậy bên thềm lại soi.

                                                     Cuộc đời có khóc, có cười,

                                                     Có cay đắng, có ngọt bùi mới hay.

                                                     Thu về trời lại xanh mây,

                                                     Ðầy trời ta thấy những ngày ta yêu.

                                                     Càng yêu, yêu lại càng nhiều,

                                                     Nhớ Em, Anh nhắn một điều : “Yêu Em.”

    Năm 2013 tôi đổi hai tiếng trong bài thơ :

                                                     Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,

                                                     Sáu mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.

    o O o

    12 giờ buổi trưa tháng Sáu, 2012, Nàng bước hụt, ngã nhào qua bốn bực thềm cửa, nàng ngất đi. Ngồi bên nàng trong nắng trưa mùa hạ Virginia, chờ ambulance đến, nước mắt tôi ưá ra. Trong ICU – Ai Si Yu – Intensive Care Unit – tỉnh lại, nàng nói :

          – Xin Thiên Chúa tha tội cho em.

    Tôi nói 

          – Em có tội gì ? Mà Em có tội gì, Thiên Chúa cũng tha cho Em rồi.

    Nàng chỉ bị dập xương nên không bị mổ, không bị ghép xương, không phải bó bột. Về nhà nằm, uống Vitamin D, chờ vết xương nứt lành lại. Tình trạng bi đát. Nhiều người nói người trẻ khi bị nứt xương mới mong vết xương nứt liền lại, người già 70 thì vô phương. Nếu vết xương nứt không lành, nàng sẽ phải nằm mãi trên giường.

    Tôi hầu nàng ngày đêm. Gần như suốt ngày đêm, tôi xin Ðức Mẹ Maria cho nàng đi lại được. Tôi chỉ xin Ðức Mẹ cho nàng đi được từ giuờng ngủ vào nhà bếp, vào toilet, ra ngồi bàn ăn cơm, nàng tự tắm được. Bộ Xã Hội cấp cho nàng đủ thứ nàng cần dùng : Xe đẩy, gậy chống, ghế để ngồi tắm… Chuyên viên y tế – therapist – đến nhà mỗi tuần ba lần, giúp nàng ngồi lên, tập đi. Một tháng sau nàng đi được.

    o O o

    Ba năm nay Nàng có tới ba, bốn lần đau nặng, hai ba lần nàng tự nhiên ngã. Một lần nàng hôn mê. Ðêm khuya trong bệnh viện, nằm trên cái canapé nghe tiếng nàng thở khò khè, tôi nghĩ :

          – Tiếng thở này tắt là…

    Tôi cầu xin :

          – Xin Mẹ cho vợ chồng con được sống với nhau 5 năm nữa.

    Tôi không muốn tôi chết trước nàng, tôi không muốn nàng chết trước tôi. Nàng chết trước tôi không biết tôi sống ra sao. Tám mươi tuổi, tôi sống với nàng 60 năm, tôi sống dựa vào nàng. Tôi sống bằng Tình Yêu của nàng.


    Năm 1976 gặp lại nhau, Lê Trọng Nguyễn nói :

          – Tao không biết mày có đi được không. Tao cứ tưởng mày làm USIS là mày đi được. Hôm tao gặp thằng S. ở trong khu nhà mày, tao hỏi nó mày có đi được không ? Nó nói mày không đi được. Tao kêu lên : “Làm sao nó sống ? Nó sống bằng gì ? ” S. nó nói : “Nó sống bằng Tình Yêu của vợ nó”.

    Người bạn cùng tuổi tôi – 80 – lấy vợ cùng năm với tôi – năm 1954 – vợ chồng anh cũng sống với nhau 60 năm . Một sáng từ Cali anh gọi phone cho tôi báo tin vợ anh qua đời, tôi hỏi :

          – Ðau lắm không ?

    Ðau thì tôi biết bạn tôi đau nhưng tôi muốn biết anh đau đến ngần nào. Hỏi dễ, trả lời khó. Bạn tôi nói :

          – Ðứt ruột, nát gan.

    Lần cuối tôi gặp ông Lê Văn Ba, ông hơn tôi 10 tuổi, ông nói với tôi :

          – Tôi nói với bà nhà tôi : Bà nên đi trước tôi là hơn, tôi đi trước bà, bà sẽ khổ lắm.

    Năm sau ông đi trước bà. Ðứng bên quan tài ông, tôi nhớ lời ông nói. Ông bạn HO có bà vợ bại liệt, ông phải đưa bà vào Nursing Home. Ðể bà ở lại ông một mình lái xe về. Dọc đường ông run tay lái, mắt ông mờ. Ông đậu xe bên đường, xuống đi bộ vài vòng lấy lại tinh thần. Khi trở lại tìm xe, ông quên không nhớ ông đậu xe ở đâu. Ông mở cellphone gọi ông bạn đến giúp.

    o O o

                                                      Người đời chỉ nói “Good bye”,

                                                    “See You next week, next time” là cùng.

                                                      Ðôi ta ngọc nữ, tiên đồng,

                                                      Ðôi ta Từ Thức vợ chồng Giáng Hương.

                                                      Ngàn đời vẫn nhớ, còn thương :

                                                      Em yêu, đã đến cuối đường :

                                                   “Good bye. See You next Life”.

    Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

  • Biên khảo,  Lê Tuấn,  Văn

    Thơ Là Gì ?

     

     

    THƠ LÀ GÌ?

                                                                                                                Louis Tuấn Lê

                     Thơ là hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người, một hình thức nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu và sự chọn lựa ngôn từ rồi sắp xếp theo vần điệu của thi ca, dưới dạng cô đọng, trừu tượng một cách hợp lý nhất (logic) để tạo ra hình ảnh, mang tính thẩm mỹ cao và âm thanh thể hiện cái hồn trong thơ đem đến một cảm xúc làm rung động tâm hồn người đọc.

                   Một câu thơ là một hình thức cô đọng mang nhiều ẩn ý, để truyền đạt một tư tưởng mang nhiều hình ảnh tạo nhiều cảm xúc cho người đọc, ngôn từ và ngữ pháp sử dụng trong thơ sẽ được hoàn chính theo cấu trúc tạo thành bài thơ.

                   Tính chất cô đọng trong ngôn từ, tính tượng hình và tiếng nhạc trong thơ, biến nó thành một hình thức nghệ thuật độc đáo, mang một sắc thái riêng biệt đứng bên cạnh các hình thức nghệ thuật khác.

                  Thơ tạo cảm hứng có một giá trị tinh hoa, đó cũng là một dạng đời sống khác biệt của thi nhân, tâm hồn rất dễ bị xúc động để rồi chọn lựa những từ ngữ rất ấn tượng mang tính chất trừu tượng (nửa thật nửa hư) để diễn tả cảm xúc, như một loại “mật ngữ” cúa các vị thần ban cho.

    Tôi tìm hiểu thêm về đề tài Thơ Là Gì? Càng đi sâu càng thấy mênh mông như biển cả, không biết bắt đầu từ đâu và kết thúc ở điểm nào.

    Tôi mạnh dạn bước vào xem thử ra sao, vì vậy bài viết này như một dạng biên khảo rồi đúc kết lại, tôi phải lục tìm rất nhiều trang tài liệu trên hệ thống Google Search nhận ra có nhiều nhà văn nhà thơ đã viết về chủ đền này, mỗi bài đều có sắc thái riêng. Tôi đọc rất nhiều, rút tỉa những điểm có ý nghĩa nhất về chủ đề Thơ Là Gì? Để nêu ra những điểm chính trong bài viết này. Nếu có sai sót xin quý độc giả bỏ qua cho.

              Thơ có một lịch sử lâu dài nhất. Thơ có một định nghĩa sớm nhất tại Châu Âu qua sự nhận xét của nhà triết học Hy Lạp Aristotle (384-322 TCN).  Aristotle sinh ra vào khoảng năm 384 TCN tại Macedonia thời Hy Lạp cổ đại nơi cha ông từng là một bác sĩ hoàng gia. Ông được xem như nhà triết học, có ảnh hưởng nhất với biệt danh khiêm tốn được mọi người gọi là “Thầy” hay chỉ đơn giản là “triết gia”.

    Đối với Aristotle, những khuôn mẫu đặc thù của âm thanh và nhịp điệu, văn phong và thi pháp, chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Cái chính đối với ông là những gì bài thơ nói tới, nó là một chuỗi nối tiếp những động thái có quan hệ hỗ tương của con người.

    Ông nói tiếp:

    Tôi muốn biết yếu tính của thơ là gì, cái gì làm cho nó khác với các loại trước tác khác. Có phải nó là vấn đề những giá trị vững chãi, vấn đề sắc thái và nhịp điệu của âm tiết, từ ngữ, và các dòng chữ? Hay yếu tính của thơ nằm trong một cảm tưởng, một sự nhạy cảm, hoặc một thái độ nào đó đối với sự vật?

    Aristotle, trong tiểu luận của mình về thơ, nói rằng thơ là sự mô phỏng động thái con người, được biểu hiện trong ngôn ngữ, với sự trợ giúp của hòa âm và nhịp điệu. Từ ngữ “mô phỏng” ông không có ý nói là bản sao của những biến cố thực tế, như cái máy ghi âm hay máy quay phim có thể đem lại. Ông muốn nói đến việc trình bày lại của những phương diện phổ quát của kinh nghiệm nhân sinh được tâm trí nhà thơ thu nhận.

    Nhà thơ khác với nhà điêu khắc, họa sĩ, nhạc sĩ và các nghệ sĩ khác, nhà thơ làm việc với từ ngữ sử dụng ngôn ngữ để sáng tạo.

    Nhà thơ, đối với Aristotle, căn bản là người kể chuyện, người sáng tác huyền thoại, người viết truyện mang tính chất hư cấu.

              Nếu chúng ta chỉ nghĩ đến thực chất của thơ, như Aristotle khuyên, chúng ta nhất định sẽ xếp các tiểu thuyết và các vở kịch văn xuôi vào loại thơ. Nên chúng ta đừng ngạc nhiên khi nghe những nhà văn như: Cervantes, Fielding, và Melville, tự xem mình là nhà thơ. Thật vậy, các nhà phê bình đương thời đọc những tiểu thuyết lịch sử về Scotland của Scott và gọi chúng là những bài thơ. Và chúng ta sẽ hoàn toàn đúng khi gọi Hemingway, Faulkner, Arthur Miller, và Tennessee Williams là những nhà thơ.    

                 Tuy nhiên, Plato ông cho rằng thơ mang lại sự thích thú và sự thanh thoát cảm xúc đáng ao ước. Mặt khác, ông nói rằng thơ tượng trưng cho những phương diện phổ quát của hiện hữu. Sự tưởng tượng của thơ, đối với Aristotle, trình bày những thực thể thiết yếu nên phải hết sức coi trọng nó.

                 Nhà phê bình Nga Bielinski từng nói: “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật.” Quả thật một bài thơ có giá trị là khi nó thể hiện được tư tưởng tình cảm của người nghệ sĩ, là khi nó viết lên bằng những dòng thơ, những câu thơ chân thành, bắt nguồn từ thẳm sâu trái tim người viết.

                Tuy nhiên nếu muốn thơ là cầu nối giữa tác giả và bạn đọc thì “nội dung và hình thức luôn đồng nhất chặt chẽ với nhau”.

                Trở về với quan niệm Đông Phương vể thơ. Chúng ta không thể bỏ qua nền văn học Trung Hoa

    Bàn về giá trị của thơ, trong tập thơ cổ “Trung Hoa Cổ kim hoàn ca tập”, Viên Mai đã viết:

    “Thơ bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ.”

    Bạch Cư Dị, sinh ngày 28 tháng 2 năm 772 SCN tại Hà Nam, tên tự là Lạc Thiên. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc, đời nhà Đường. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch, Đỗ Phủ.

    Bạch Cư Dị, cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịnh, Vương Kiến, chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức.

    Ông nói: “Làm văn phải vì thời thế mà làm. Làm thơ phải vì thực tại mà viết”, mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân.

    Ông chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giầu tính nhân bản, nói lên được nỗi lòng của mọi người trước thời thế, phản ánh được nổi thống khổ của người dân sống trong xã hội.

    Bạch Cư Dị, nổi tiếng qua hai bài thơ Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ chứng tỏ tài làm thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo.

    Có thể nói rằng nếu không có một cuộc đời gian truân, hẳn là Bạch Cư Dị khó mà cảm thông với muôn sự éo le của mỗi số phận. Và nhiều khi, đọc thơ ông, ta còn thấy rõ cả tâm sự của ông khi ông kể và tả về người khác. Bài “Tỳ bà hành” là một ví dụ. Trong bài thơ dài này, khi thuật lại hành trạng đáng thương của người kỹ nữ, Bạch Cư Dị cũng đã giãi bày nỗi phiền muộn xót xa cho chính thân phận mình là người có tâm đức, tài năng mà bị bọn quyền thế gạt bỏ. Thơ của ông chính là sức mạnh lên án, tố cáo thực trạng vô nhân đạo của xã hội phong kiến trong sáng tác thơ ca Bạch Cư Dị chính là ở đó.                                   

     

                                                  Tỳ Bà Hành                                                   

    “Bản dịch Phan Huy thực”

     

    Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.

    Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.

    Người xuống ngựa, khách dừng chèo,

    Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.

    Say những luống ngại khi hầu rẽ,

    Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.

    Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,

    Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.

    Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?

    Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.

    Dời thuyền theo hỏi thăm tình,

    Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.

    Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,

    Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.

    Vặn đàn vài tiếng dạo qua,

    Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.

    Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,

    Dường than niềm tấm tức bấy lâu.

    Chau mày, tay gảy khúc sầu,

    Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.

    “Trích đoạn trong bài thơ Tỳ Bà Hành”

    Bạch Cư Dị tiễn chân người bạn ra bến sông Tầm Dương lên thuyền về nhà, tại đây ông tình cờ nghe tiếng đàn tỳ bà của một kỹ nữ về già, ông liên tưởng đến thân phận mình, vì ông lên tiếng phản đối quan lại, nên bị bọn quyền thế lưu đầy. Ông đã gửi gấm tâm sự của mình qua bài thơ Tý Bà Hành.

    Trong thời gian tù tập trung cải tạo tại trại 6 Nghệ Tĩnh. Tôi bị tập trung cải tạo cùng trại tù số 6 với Cụ Hà Thượng Nhân tức Trung Tá Phạm Xuân Ninh, ông có nhắc đến bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Bạch Cư Dị, đó là bài Tỳ Bà Hành.

     Bài thơ diễn tả tâm trạng của hai người bạn, tiễn đưa khách tại bến Tầm Dương, chắc có lẽ vì (Bến Tầm Dương), cùng âm với Huyện Thanh Chương, (nơi đây có dòng sông Lam) cụ Hà đang bị giam cầm tập trung cải tại tại đây, cho nên cụ Hà đã viết:

    Ý tưởng bài thơ Tỳ Bà Hành, như gợi nhớ lại âm điệu đoạn trường của tiếng đàn ngày xưa, trên bến Tầm Dương, sông nước mênh mộng, nhưng cũng chính là tiếng lòng rung động của một người bị trói buộc vào những cảnh ngộ đau lòng. Cho đến ngàn năm sau vẫn còn lại một mình ta.

    Cụ Hà đã viết:

    “Ôi cơn gió heo may thuở trước

    Lạnh ngàn năm sông nước Tầm Dương

    Về đây rừng núi Thanh Chương

    Nghe heo may nổi canh trường ngẩn ngơ.

    Trước đã có nhà thơ cùng quẫn

    Ngàn năm sau sao vẫn còn ta?

    Đời gần tưởng đã rất xa

    Bâng khuâng vì tiếng tỳ bà chưa nghe.”

    Thông qua giao tiếp giữa các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Thơ đã chuyển biến từ những cấu trúc đơn giản đến những cấu trúc phức tạp. Những xu hướng gần đây cho thấy, cấu trúc không còn là yếu tố quan trọng trong thơ.

    Trong các thể loại thơ ở Việt Nam, chúng ta có thể kể đến vài thể thơ như:

    Lục bát, Song thất lục bá, thơ Đường luật Thất ngôn bát cú, Thất ngôn tứ tuyệt, Ngũ ngôn bát cú rồi đến các loại thơ mới và thơ tự do.

    Ngoại trừ thơ tự do, một hình thức hầu như không có một cấu trúc rõ rệt, các loại thơ khác đều phải tuân theo một cấu trúc nhất định.

    Nhà thơ giống như một con ong biến trăm hoa thành mật, tha về một giọt mật trong một chuyến bay của hàng ngàn con ong. Chính là những ngôn từ được chọn lựa cho một bài thơ.

    Cho dù bất cứ thể loại nào của thơ cũng cần phải có hồn. Hồn thơ làm cho nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm sinh động, có sức sống và mang một bản sắc riêng của nhà thơ.

    Hồn thơ là mẫu số chung:

    Hồn thơ chính là nguồn cảm xúc đầu tiên của một tác phẩm. Hồn thơ chính là mẫu số chung cho toàn thể các loại thơ khác nhau. Hồn thơ không chỉ hàm chứa bên trong một nội lực, sáng tạo nhiều cảm xúc cho thi nhân, mà hồn thơ còn là yếu tố tạo thành điểm đặc trưng, nét đặc biệt của người nghệ sĩ thể hiện qua từng trướng phái khác nhau của thơ.

    Tiếng nhạc trong thơ:

    Ngoài ra trong thơ phải có tiếng nhạc, đây chính là yếu tố làm cho bài thơ dễ được cảm nhận bởi người nghe hay người đọc. Câu chữ trong thơ văn, hay trong ngôn ngữ, giúp con người tái tạo lại hình ảnh mà nó miêu tả, song âm thanh và vần điệu của các từ lại gây cảm xúc về âm nhạc.

    Hình ảnh trong thơ:

    Tính chất hội họa trong thơ, hay còn gọi là tính tạo hình, là một tính chất cơ bản. Người làm thơ, trước khi viết thơ, thường rơi vào tình trạng mà người ta gọi là “cảm hứng”. Trong tình trạng này, các hình ảnh thu được trong trí nhớ, có thể bao gồm tất cả những khung cảnh ở bên ngoài quan sát được, liên kết với nhau, tạo nên một bức tranh trong một thế giới nhỏ bé. Hình ảnh có thể rõ đến mức người ta gần như cảm thấy như có thể động vào những vật thể, hay ngửi thấy mùi vị, thấy được màu sắc và sự chuyển động thật sự trong bài thơ.

    Bạch Cư Dị đã nêu lên những yếu tố then chốt trở thành điều kiện, để sáng tác một bài thơ và giữ được cái hồn của thơ đó là:

    Cái cảm hoá được lòng người:

    –        Chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm,

    –        Chẳng gì đi trước được ngôn ngữ,

    –        Chẳng gì gần gũi bằng âm thanh,

    –        Chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa”

    Có bốn nguồn gốc gắn bó cấu tạo cho thơ:

    1-    Gốc là tình cảm,

            2-    Mầm lá là ngôn ngữ,

    3-    Hoa là âm thanh,

    4-    Quả là ý nghĩa.

    Quan niệm này không chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả, gắn liền với nhau trong một thể thống nhất hoàn chỉnh và sống động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu sắc nhất trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa.

    Nữ văn hào Emily Dickinson là cây bút thơ đặc sắc nhất của Mỹ thế kỉ XIX.  Bà đã để lại cho hậu thế tới 2000 bài thơ với nhiều bài có ý tưởng hết sức độc đáo. Trong quan điểm về thơ ca, bà cũng có cách nhìn rất ấn tượng.

    “Nếu một cuốn sách làm cho tôi cảm thấy giá lạnh mà không một ngọn lửa nào có thể sưởi ấm, tôi biết đó là thơ”

    “Nếu tôi cảm thấy mình đang cất cánh, tôi cũng biết đó là thơ. Đó là cách duy nhất để tôi biết những điều này, liệu còn cách nào khác nữa không?”

    Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu viết rằng:

    Triết lý khô như vách đá. Thi ca ướt như sương đẫm. Vách đá nhuốm hơi sương. Sương đẫm tươi vách đá, cả hai hỗ tương nhau tạo thành sức sống như năng lượng phù trầm, tương dung tương nhiếp, một mực không rời.” 

    Thơ ướt át nhiều tình cảm mang đậm nét trữ tình

    Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh học của ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ…) không được tổ chức thì trong thơ, trái lại, những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết.

    Bởi thế, đặc trưng tính nhạc trong thơ, được coi như điểm trọng yếu nâng cao hồn thơ lên tầm mức thi ca làm rung động lòng người.

    Hiện nay, thơ trở thành hình thức nghệ thuật hầu như ai cũng biết đến. Không

    một ai đã từng ngồi ghế nhà trường thông qua giáo dục mà không biết vài câu thơ.

    Thơ còn trở nên hình thức để bày tỏ tâm tư và chứa đựng tính sáng tạo của con người. Có thể nói, sự tồn tại của thơ đi song song với sự tồn tại của ngôn ngữ.

    Thơ bắt nguồn và đơm hoa kết trái từ sự rung động của tác giả, chuyển hóa tư tưởng qua vần điệu thi ca gửi đến người đọc bằng cảm xúc mãnh liệt.

    Tiếng lòng chính là nội dung của bài thơ, được ví như gốc rễ, phần nằm sâu trong lòng đất, là bộ phận quan trọng, hút dinh dưỡng nuôi sống thân cây. “Rễ” quan trọng như vậy nhưng nó lại khó thấy, vì nằm sâu trong lòng đất.

    Do đó thơ bắt nguồn từ thẳm sâu trong trái tim người viết, từ những xúc cảm ngọt ngào, êm ái khi hấp thụ chất phù sa, sau khi hút chất dinh dưỡng ấy, nó sẽ dơm hoa kết trái.

    Đó là sự thăng hoa của nghệ thuật, mà cụ thể ở đây là “từ ngữ”. Từ ngữ trong thơ ca cũng chính là chất liệu được thi sĩ mã hóa, sàng lọc từ cuộc đời để tạo ra những câu thơ tinh túy nhất. Chính nhờ những ngôn từ bay bổng, cảm xúc từ tận đáy tâm hồn của tác giả mới được thăng hoa.

    Trong thang bậc giá trị nghệ thuật, thơ đứng vị trí đầu tiên. Thơ tạo cảm hứng, sự rung động có một giá trị tinh hoa, đó cũng là một dạng đời sống khác biệt của thi nhân.

    Họa sĩ giúp ta nhìn bằng chất liệu là màu sắc, nghề cầm bút thì chất liệu giúp ta nhìn là ngôn từ.

    Có thể nói ở Việt Nam khi bất kỳ ai đó cất lên vài câu nghe có vần có vè thì mọi người cho đó là thơ. Vậy làm thơ dễ dàng như thế sao? Thơ là loại hình nghệ thuật ngôn từ cao cấp, là tinh túy của ngôn ngữ.

    Có rất nhiều người làm thơ mà không hiểu thơ là gì, thậm chí ngay cả những người phê bình thơ, cũng không hiểu thơ là gì. Ngày nay thơ đã trở nên bội thực vì có quá nhiều nhà thơ, tuy nhiên nếu xem xét trên thực tế, thì liệu có bao nhiêu tác phẩm được cho là thơ đúng với khái niệm mà nó hàm chứa?

    Không phải ai muốn viết cũng viết được, không phải ai có vốn sống phong phú cũng có thể viết được, nhưng tất nhiên, nếu họ muốn viết thì một ngày nào đó họ cũng sẽ viết được và cũng không phải ai cũng cứ ngồi xuống là có thể viết được (đó là những người siêu đẳng).

    Điều quan trọng nhất đối với người cầm bút, là không được tách rời giữa việc viết với đời sống thực sự. Nhờ sự tiếp xúc, cọ sát thường xuyên mà ý tưởng mới căng tròn, và một lúc nào đó thích hợp, ta vui sướng viết ra ý tưởng đó.

    Nhà thơ người Mỹ (W. H. Auden) nêu ra ý tưởng mang tính chất định nghĩa này đối với Thơ:

    “Thơ là biểu đạt trong sáng của những cảm xúc rối bời” 

    (Poetry is the clear expression of mixed feeling).

    Chúng ta có thể chứng minh định nghĩa này qua bài thơ Ru con của tác giả vô danh có lẽ đây là một người đàn bà đang nuôi con nhỏ ở một vùng thôn quê nào đó tại Việt Nam. Chúng ta thử tìm hiểu qua bài thơ này để chứng minh một cảm xúc rối bời được viết ra như thế nào.

    Ru con

    Bồng bồng con nín con ơi

    Dưới sông cá lội, ở trên trời chim bay.

    Ước gì mẹ có mười tay

    Tay kia bắt cá, còn tay này bắn chim.

    Một tay chuốt chỉ luồn kim

    Một tay đi làm ruộng, một tay tìm hái rau.

    Một tay ôm ấp con đau

    Một tay vay gạo, một tay cầu cúng ma.

    Một tay khung cửi guồng xa

    Một tay lo bếp nước, lo cửa nhà nắng mưa.

    Một tay đi củi muối dưa

    Còn tay để van lạy, để bẩm thưa, đỡ đòn.

    Tay nào để giữ lấy con

    Tay nào lau nước mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay.

    Bồng bồng con ngủ cho say

    Dưới sông cá vẫn lội, chim vẫn bay trên trời.

     

              Người đàn bà vô danh tác giả của bài thơ Ru con, đang muốn nói điều gì trong cảm xúc rối bời đó. Có muốn nhăn nhủ gì đó với người chồng của minh, hay với mẹ chồng, em chồng hay không?

              Người đàn bà chân quê tác giả bài ru con, có biết chữ hay không? Hay chỉ là một cảm xúc rối bời, buột miệng nói lên những suy nghĩ của mình, bài thơ như một câu vè hay lời ru con trong ca dao tục ngữ.

    Hay giống như người cổ đại xa xưa vẽ tranh trong hang động mà họ không cần biết chữ, những bức tranh trong hang động có thể là một bài thơ nhắn nhủ cho hậu thế.

    Đại thi hào Nguyễn Du đã viết lên tác phẩn Truyện Kiều qua hình thức thi ca dài hơn 3000 câu thơ, cậu chuyện như một tiếng kêu xé ruột, đau lòng. Khi viết xong tập thơ Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa thấy ai có thể đồng cảm với mình. 

    Ông đã viết:

    “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” 

    “Ai biết hơn ba trăm năm nữa, liệu có ai thầm khóc thương Tố Như này?” 

    Tố Như chính là Nguyễn Du

    Chưa thấy ai đồng cảm với mình, Nguyễn Du vẫn viết, cũng như người đàn bà vô danh không biết chữ vẫn hát lên bài Ru con.

    Như vậy chúng ta thấy rằng người làm thơ khi nói ra hoặc viết ra bài thơ thường là nói cho chính mình và viết cho chính mình, nói ra hoặc viết để làm vơi đi nỗi lòng đang thôi thúc trong tâm hồn của mình.

    Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ cô đọng đầy cảm xúc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu mang tính âm nhạc trong thơ.

    Qua kinh nghiệm của chính tôi, dường như tôi có một cơ duyên đến với thơ. Khi tôi bị tập trung cải tạo tại trại tù số 6 huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ Tĩnh, trong giai đoạn này tôi ở chung đội tù với nhà thơ Tô Thùy Yên tức Thiếu Tá Đinh Thành Tiên, hơn nữa tôi lại nằm cạnh ông, tôi thấy ông làm thơ, và tôi cũng bắt trước làm thơ nhờ ông đọc qua và nhận xét.

    Tô Thùy Yên đã nhân xét, ông nói với tôi:

    –        Tuấn à! Anh thấy thơ em viết cũng rất có hồn, nên viết nhều hơn nữa.

            Có lẽ từ đó tôi bắt đầu viết nhiều hơn, tuy nhiên theo tôi muốn làm thơ hay cần phải đọc thật nhiều, cả những bài hay và những bài không hay, vì bên trong những bài thơ này luôn ẩn giấu nhũng “mật ngữ” rất hay, chính điểm này sẽ làm cho thư viện từ ngữ trong tâm hồn mình có nhiều ngôn từ hơn để diễn tả.

            Thơ Là Gì? Đây là một câu hỏi rất lớn, nếu muốn giải thích hết ý nghĩa của câu hỏi, thì không có bút mực nào viết hết được.

    Tôi không phải là nhà phê bình và cũng không tự nhận là nhà thơ, tôi chỉ là người thích thơ và muốn tìm hiểu thêm về thơ, tự mình đi tìm tài liệu rồi viết lại như một dạng biên khảo hay dạng tài liệu để từ đó người đọc có thể tìm hiều thêm.

    Trong bài viết này chắc chắn có nhiều sai sót rất mong độc giả bỏ qua cho. Tôi xin dừng lại ở đây và mượn bài thơ Ngôn từ trong thơ do tôi viết để kết thúc bài biên khảo này.

    Ngôn Từ Trong Thơ

    Chữ trong thơ chợt ngoi lên

    Bồng bềnh ngôn ngữ nằm bên cuộc tình

    Thả trôi theo khóm lục bình

    Hỏi em che dấu bóng hình nơi đâu.

     

    Gió đưa dải yếm qua cầu

    Hương thơm tơ lụa tầm dâu ngỡ ngàng

    Soi nghiêng vạt áo lụa vàng

    Dáng em quyến rũ dịu dàng bước đi.

     

    Dấu chân hoa nở xuân thì

    Môi xinh cười nụ tình si lạ thường

    Đồng xanh bát ngát quê hương

    Cỏ mền ướt đọng giọt sương bàng hoàng.

     

    Nhớ em thung lũng hoa vàng

    Thương nhau ôm cả hành trang vào đời

    Dù mai góc bể chân trời

    Theo em phố núi rong chơi tháng ngày.

     

    Tóc em thơm ngát hương say

    Môi em mềm mại ngất ngây đậm đà

    Khói trầm hương phủ bóng tà

    Mắt xanh liếc nhẹ mặn mà trao duyên.

     

    Vai nghiêng suối tóc tơ huyền

    Đôi gò bồng đảo hai miền tuyết băng

    Đêm huyền ảo dưới bóng trăng

    Tay em dài nụ búp măng gợi tình.

     

    Tình yêu không phải vô hình

    Chạm môi mới biết chân tình thật hư

    Yêu là hiện hữu thiên thu

    Quanh co dấu hỏi trầm tư mập mờ.

     

    Tế Luân

    Xin kết thúc bài viết nơi đây.

     

    Louis Tuấn lê

    Viết xong 08-06-23

     

    Ghi chú:

    Tài liệu tham khảo từ nhiều nguồn trên Google Search

    Và trang Vikipedia.                                                                        

  • Lê Tuấn,  Văn,  Văn, Thơ, Truyện Dịch

    Những câu chuyện ngắn ý nghĩa hay nhất – Lê Tuấn sưu tầm

    Giá trị của hòn đá

    Có một học trò hỏi thầy mình rằng:

    Thưa thầy, giá trị của cuộc sống là gì ạ?

    Người thầy lấy một hòn đá trao cho người học trò và dặn:

    – Con đem hòn đá này ra chợ nhưng không được bán nó đi, chỉ cần để ý xem người ta trả giá bao nhiêu.

    Vâng lời thầy, người học trò mang hòn đá ra chợ bán. Mọi người không hiểu tại sao anh lại bán một hòn đá xấu xí như vậy. Ngồi cả ngày, một người bán rong thương tình đã đến hỏi và trả giá hòn đá một đồng. Người học trò mang hòn đá về và than thở:

    – Hòn đá xấu xí này chẳng ai thèm mua. Cũng may có ngườihỏi mua với giá một đồng thầy ạ.
    Người thầy mỉm cười và nói:

    – Tốt lắm, ngày mai con hãy mang hòn đá vào tiệm vàng và bán cho chủ tiệm, nhớ là dù chủ cửa hàng vàng có mua thì cũng không được bán.

    Người học trò rất bất ngờ khi chủ tiệm vàng trả giá hòn đá là 500 đồng. Anh háo hức hỏi thầy tại sao lại như vậy. Người thầy cười và nói:

    – Ngày mai con hãy đem nó đến chỗ bán đồ cổ. Nhưng tuyệt đối đừng bán nó, chỉ hỏi giá mà thôi.

    Làm theo lời thầy dặn, sau một hồi xem xét thì anh vô cùng ngạc nhiên khi chủ hiệu trả giá hòn đá là cả gia sản hiện có. Anh vẫn nhất quyết không bán và vội về kể lại với thầy. Lúc này người thầy mới chậm rãi nói:

    – Hòn đá thực chất chính là một khối ngọc cổ quý giá, đáng cả một gia tài, và giá trị cuộc sống cũng giống như hòn đá kia, có người hiểu và có người không hiểu. Với người không hiểu và không thể cảm nhận thì giá trị cuộc sống chẳng đáng một xu, còn với người hiểu thì nó đáng giá cả một gia tài. Hòn đá vẫn vậy, cuộc sống vẫn thế, điều duy nhất tạo nên sự khác biệt là sự hiểu biết của con và cách con nhìn nhận cuộc sống.

    Bài học: Mỗi người có một cách “định giá” khác nhau về thành công hay hạnh phúc. Hãy tôn trọng sự lựa chọn của mỗi người và làm cho đời mình trở nên giá trị theo cách của mình. Chỉ có bạn mới quyết đinh được cuộc sống của bạn.

     

    Xin mời đọc tiếp trên trang Blogspot Cuôc sống và thi Ca

    https://cuocsongthica.blogspot.com/2023/07/nhung-cau-chuyen-ngan-that-y-nghia.html

    https://cuocsongthica.blogspot.com/2023/07/nhung-cau-chuyen-ngan-that-y-nghia.html

  • Biên khảo,  Lê Tuấn,  Tin tức,  Văn

    Minh Đức Hoài Trinh & Phạm Duy

     Tế Luân

    Tôi tình cờ lướt trên Facebook và bắt gặp một bài viết khá hấp dẫn về sự cảm nhận qua hai ca khúc phổ thơ của Minh Đức Hoài Trinh, đó là “Kiếp nào có yêu nhau” và “Đừng bỏ em một mình”, nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc.

    Bài viết này đã tạo cho tôi chất kích thích từ đó tôi đã tham khảo thêm nhiều trang website để tìm hiểu thêm.

    Trước khi đi vào hai ca khúc “Kiếp nào có yêu nhau” và “Đừng bỏ em một mình” nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc.

    Cá nhân tôi hiện tại là thành viên mới của VBVNHN DBHK, cũng tìm hiểu chút ít về sự hình thành của VBVNHN. Tôi xin nhắc đến vai trò chủ tịch VBVNHN của nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh

    Hơn nữa nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh là người có công tái lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (1978-1979)

    Sau khi Cựu Chủ tịch VBVN Cộng Hoà là thi bá Vũ Hoàng Chương (1969-1973), từ nhà tù khám Chí Hoà (Do cộng sản bắt giam) vì bệnh nặng được thả ra, 5 ngày sau ông đã qua đời vào ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn hưởng thọ 60 tuổi (1916-1976). 

    Chức vụ Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam kể từ ngày đó xem như bỏ trống, trong thời gian này chính quyền cộng sản đã chiếm Miền Nam VN.

    Năm 1978. Trước tình trạng đàn áp nhân quyền khốc liệt tại Việt Nam, vài cựu hội viên VBVN tị nạn tại Âu Châu:

    Đứng đầu là Ký giả Đạo Cù Trần Tam Tiệp, cùng với nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh, Luật sư Trần Thanh Hiệp và thi sĩ Nguyên Sa, tích cực vận động tái thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Lưu Vong (sau này đổi thành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại) và chính thức ra mắt vào ngày 25-6-1978 tại Paris. 

    Một năm sau (1979) Đại hội PEN lần thứ 44 tại Brazil đã công nhậnVăn Bút Việt Nam Hải Ngoại là thành viên chính thức của PEN

    Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh là chủ tịch đầu tiên VBVNHN nhiệm kỳ (1978-1979)

    Sau này nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh phụ trách vai trò chủ tịch VBVNHN thêm một lần nữa nhiệm kỳ (2001-2002)

     Bài viết này tôi chỉ ghi lại một vài điểm chính và nổi bật nhất về tiểu sử của nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh. (Theo nguồn Wikipedia tiếng Việt).

    Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930 tại Huế, thân phụ là ông Võ Chuẩn Tổng Đốc Tỉnh Quảng Nam. Bà mất ngày 9 tháng 6 năm 2017 tại Huntington Beach, California USA.

    Bà là nữ Văn Sĩ, Phóng Viên chiến trường. Bà mang tên một số bút hiệu

    khác như Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử


    Vốn là một tiểu thư xứ Huế, thuộc dòng tộc quan lại, cha bà là Tổng đốc tỉnh

    Quảng Nam. Năm 17 tuổi (1947) nàng ra Thanh Hóa để vào chiến khu kháng Pháp.

    Duyên gặp gỡ nhạc sĩ Phạm Duy.

    Phạm Duy gặp cô lần đầu khi theo gánh hát lưu diễn ở Huế, lần thứ hai trong chiến khu và lần thứ ba tại Paris Pháp.

    “Phạm Duy đã viết về nàng một đoạn trong hồi ký như sau:

    Tôi bấy giờ đang là quân nhân, bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô.

    Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con, ai cũng đều mê mẩn cô bé này.

    Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp.

    Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ.”

    Cây đũa thần âm nhạc của Phạm Duy khi đã phổ nhạc cho bất cứ bài thơ nào thì bài thơ đó cùng với thi sĩ sẽ được chắp cánh bay cao.

    Thiên tài âm nhạc Phạm Duy còn có một tâm hồn rất nhạy bén với thơ, mang đầy cảm xúc rất dễ hoà nhập và rung động vào từng ý thơ, đôi khi ông đã thay đổi lời thơ, thêm vào những câu thơ nhưng vần điệu mà vẫn chảy xuôi theo ý thơ và phù hợp với tổng thể của bài thơ, ông đã thực sự chắp cánh cho những bài thơ.

    Trở lại với hai ca khúc Phạm Duy phổ thơ của Minh Đức Hoài Trinh. Cả hai ca khúc đều trở nên nổi tiếng trong nền âm nhạc VN. Kiếp Nào Có Yêu Nhau và Đừng Bỏ Em Một Mình.

    Riêng ca khúc “Đừng bỏ em một mình” thơ Minh Đức Hoài Trinh, Phạm Duy phổ nhạc, là ca khúc nghe qua là cảm nhận được sự ma quái, lạnh người nhất từ lời thơ cho đến phần âm nhạc và phối âm. Tôi sẽ trình bày sau.

    Cảm nhận về ca khúc “Kiếp nào có yêu nhau”. Chúng ta nên đi vào những chi tiết đặc biệt của từng câu thơ lời nhạc, để nhận thấy tài năng cảm nhận và hoà nhập vào hồn thơ của nhạc sĩ Phạm Duy.

    Nguyên bản bài thơ (Kiếp nào có yêu nhau) tác giả Minh Đức Hoài Trinh.

    Anh đừng nhìn em nữa
    Hoa xanh đã phai rồi
    Còn nhìn em chi nữa
    Xót lòng nhau mà thôi

    Người đã quên ta rồi
    Quên ta rồi hẳn chứ
    Trăng mùa thu gãy đôi
    Chim nào bay về xứ

    Chim ơi có gặp người
    Nhắn giùm ta vẫn nhớ
    Hoa đời phai sắc tươi
    Đêm gối sầu nức nở

    Kiếp nào có yêu nhau
    Nhớ tìm khi chưa nở
    Hoa xanh tận nghìn sau
    Tình xanh không lo sợ

    Lệ nhoà trên gối trắng
    Anh đâu, anh đâu rồi
    Rượu yêu nồng cay đắng
    Sao cạn mình em thôi

    MDHT

    Mở đầu ca khúc là câu hát “Đừng nhìn em nữa anh ơi! Hoa xanh đã phai rồi. Hương trinh đã tan rồi.

    Trong nguyên bản bài thơ không có câu “Hương trinh đã tan rồi” đây là một trong những câu nhạc sĩ Phạm Duy đã tự ý thêm vào, một cách cố ý, khi phổ nhạc bài thơ. Tuy nhiên khi viết thêm lời thơ lại rất hợp với ý thơ.

    Chúng ta thử so sánh lời ca khúc do nhạc sĩ Phạm Duy viết và nguyên bản bài thơ của Minh Đức Hoài Trinh.

    Phải nói rằng nhạc sĩ Phạm Duy chỉ mượn ý bài thơ để viết nhạc, lời ca khúc được nhạc sĩ thay đổi, chỉ giữ lại ý thơ.

    Đừng nhìn em nữa anh ơi
    Hoa xanh đã phai rồi
    Hương trinh đã tan rồi (bài thơ không có câu này)
    Đừng nhìn em, đừng nhìn em nữa anh ơi
    Đôi mi đã buông xuôi, môi răn đã quên cười. “được thêm vào”
    Hẳn người thôi đã quên ta
    Trăng Thu gẫy đôi bờ
    Chim bay xứ xa mờ.
    Gặp người chăng, gặp người chăng, nhắn cho ta
    Hoa xanh đã bơ vơ đêm sâu gối ơ thờ.

    Kiếp nào có yêu nhau
    Thì xin tìm đến mai sau
    Hoa xanh khi chưa nở
    Tình xanh khi chưa lo sợ
    Bao giờ có yêu nhau
    Thì xin gạt hết thương đau
    Anh đâu anh đâu rồi?
    Anh đâu anh đâu rồi?

    Đừng nhìn nhau nữa anh ơi
    Xa nhau đã xa rồi, quên nhau đã (đã) quên rồi
    Còn nhìn chi, còn nhìn chi nữa anh ơi
    Nước mắt đã buông rơi theo tiếng hát qua đời
    Đừng nhìn nhau nữa… anh ơi!

    Đến cả lời thơ cũng được thay đổi từng câu, từng chữ, để lời thơ mang thêm

    tiếng nhạc vừa để tương ứng với âm vực thấp cao, trầm bổng của nốt nhạc:

    Ví dụ:
    “Trăng mùa thu gãy đôi” đổi thành Trăng thu gãy đôi bờ
    “Chim nào bay về xứ” đổi thành Chim bay xứ xa mờ
    “Hoa đời phai sắc tươi” đổi thành Hoa xanh đã bơ vơ
    “Đêm gối sầu nức nở” đổi thành Đêm sâu gối ơ thờ.

    Tâm hồn nhạc sĩ Phạm Duy rất đồng cảm và nhạy bén với thơ, sự rung động

    trong tâm hồn ông như hoà nhập vào hồn thơ, những ngôn từ của ông thay đổi làm thăng hoa thêm cho bài thơ và chắp cánh cho ca khúc và tên tuổi thi sĩ bay cao.

    Nếu không nhờ nhạc sĩ Phạm Duy, thì tác giả bài thơ Kiếp Nào Có yêu Nhau, cũng không hề nổi tiếng đến như thế,

    Thái Thanh, giọng hát vẫn được xem là gắn liền với nhạc Phạm Duy, cũng gắn liền với bài hát này. Những giọng ca sĩ khác, mỗi giọng hát có cách thể hiện riêng, với nhiều người yêu nhạc và yêu bài hát này, Thái Thanh vẫn là giọng

    hát thể hiện được trọn vẹn cái hồn của bài nhạc.

    Đến ngày nay nhiều người vẫn còn nhớ giọng hát cao vút của Thái Thanh và “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” trong vở kịch “Áo Người Trinh Nữ” trình diễn trên Đài Truyền Hình Việt Nam (1967).

    Vào thời điểm đó vở kịch đã lấy đi không ít nước mắt của khán giả.

    Gần đây nhất ca khúc “Kiếp nào có yêu nhau” do ca sĩ Thái Thanh trình bày đã tạo cảm hứng cho đạo diễn điện ảnh trẻ tuổi người Mỹ gốc Việt Dustin Nguyễn, mới hoàn thành bộ phim tình cảm mang tên (Bao Giờ Có Yêu Nhau)

    Bộ phim đã ra mắt khán giả ngày 9 tháng 5 năm 2016. Đây cũng là tác phẩm thứ 3 của đạo diễn Dustin Nguyễn.

    Đạo diễn Dustin Nguyễn đã tâm sự:

    “Tôi chọn ca khúc ‘Kiếp Nào Có Yêu Nhau’ làm nhạc phim vì nội dung bài hát quá phù hợp với chuyện phim. Ca khúc bất hủ ấy không chỉ nói về kiếp người, sự luân hồi, mà còn khắc họa cả câu chuyện tình bất hạnh, tiếc nuối. Bên cạnh đó, giọng ca của nghệ sĩ Thái Thanh mang màu sắc liêu trai, ám ảnh và cực kỳ ma mị. Ca khúc này được lồng ghép vào phim chắc hẳn sẽ chạm được đến trái tim khán giả.”

    Ca khúc “Kiếp Nào Có Yêu Nhau” phù hợp với giọng nữ hơn là giọng nam, dạo gần đây có nhiều ca sĩ tự ý đổi lời bài hát, nhất là những chữ (Em) sang (Anh) không phù hợp chút nào.

    Ví dụ: Nam ca sĩ đổi chữ (Em) sang (Anh) nghe nó chướng làm sao, vì từ ngữ Hoa Xanh và Hương Trinh để dành cho phụ nữ, nếu anh ca sĩ nam (đàn ông) mà hát đổi lời thì hoá ra anh ta lại cái, đồng bóng hay BD (Gay) hay xao?

    Đừng nhìn anh! Đừng nhìn anh nữa…, em ơi!
    Hoa xanh đã phai rồi!
    Hương trinh đã tan rồi!

    Trở lại với ca khúc (Đừng bỏ em một mình) Nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ

    Minh Đức Hoài Trinh.

    Chúng ta hãy đọc lại nguyên bản bài thơ:

    Đừng bỏ em một mình
    Khi trăng về lạnh lẽo
    Khi chuông chùa u minh
    Chậm rãi tiếng cầu kinh

    Đừng bỏ em một mình
    Khi mưa chiều rào rạt
    Lũ chim buồn xơ xác
    Tìm nhau gục vào mình

    Đừng bỏ em một mình
    Trời đất đang làm kinh
    Rừng xa quằn quại gió
    Thu buốt vết hồ tinh

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bắt em làm thinh
    Cho em gào nức nở
    Hoà đại dương mông mênh

    Đừng bỏ em một mình
    Biển đêm vời vợi quá
    Bước chân đời nghiêng ngả
    Vũ trụ vàng thênh thênh

    Đừng bỏ em một mình
    Môi vệ thần không linh
    Tiếng thời gian rền rĩ
    Đường nghĩa trang gập ghềnh

    Đừng bỏ em một mình
    Bắt em nghe tiếng búa
    Tiếng búa nện vào đinh
    Hoà trong tiếng u minh

    Đừng bỏ em một mình
    Bóng thuyền ma lênh đênh
    Vòng hoa tang héo úa
    Yêu quái vẫn vô tình

    Đừng bỏ em một mình
    Cho côn trùng rúc rỉa
    Cỏ dại phủ mộ trinh
    Cho bão tố bấp bênh

    Đừng bỏ em một mình
    Mấy ngàn năm sau nữa
    Ai mái tóc còn xinh
    Đừng bỏ em một mình

    MDHT

     

    Khi ᴄa sĩ Hᴏànɡ Oanh thựᴄ hiện ᴄhươnɡ tɾình ρhát thanh Thi Văn Taᴏ Đàn

    năm 1995, nữ ᴄa sĩ ᴄó hỏi Minh Đức Hᴏài Tɾinh νề hoàn cảnh nào bà sáng tác bài thơ này.

    Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh ᴄhᴏ biết như saᴜ:

    “Một hôm tôi đến thăm νiếnɡ νiện bảᴏ tànɡ Mᴜséе dᴜ Léᴏn ở Pháρ, tôi thấy ᴄái xáᴄ ướρ khô ᴄủa 1 nɡười đàn bà 800-900 năm νề tɾướᴄ. Tôi ᴄhợt nɡhĩ đến ᴄᴏn nɡười này thời xᴜân tɾẻ ᴄó mái tóᴄ dài bᴜônɡ xᴜốnɡ lưnɡ. Mớ tóᴄ ᴄòn đó khá nɡᴜyên νẹn nhưnɡ ᴄòn đượᴄ baᴏ lâᴜ?

    Tôi νiết bài thơ này khônɡ ρhải là lời ᴄủa 1 nɡười ᴄᴏn ɡái nói νới 1 nɡười ᴄᴏn tɾai, mà là lời ᴄủa ᴄᴏn nɡười bé nhỏ nói νới νũ tɾụ đứnɡ tɾướᴄ mặt đại dươnɡ mônɡ mênh. Thеᴏ tôi khônɡ ᴄó âm thanh nàᴏ ɡhê ɾợn bằnɡ âm thanh ᴄủa búa nện tɾên đinh ᴄùnɡ nhịρ điệᴜ ᴄủa tiếnɡ ᴄầᴜ kinh. Phải thứᴄ sᴜốt đêm mới hiểᴜ đượᴄ sự bᴜốt ɡiá ᴄủa νết ᴄhân lũ hồ tinh.”

    Đừnɡ bỏ еm một mình đừnɡ bỏ еm một mình, trời lạnh qúa, trời lạnh qúa sao đành bỏ em một mình.

    Câu nói được lập lại hai lần như nhắc nhở như nỉ nᴏn, như νan nài ᴄủa một ᴄô ɡái sớm lìa tɾần ở tᴜổi đời ᴄòn ɾất tɾẻ. Tɾᴏnɡ một bᴜổi ᴄhiềᴜ lộnɡ ɡió, áᴏ qᴜan ᴄủa ᴄô đượᴄ hạ xuống huyệt sâu nơi nɡhĩa tɾanɡ bᴜồn νà lạnh lẽᴏ.

    Bài hát νới nhữnɡ từ “đừnɡ bỏ еm một mình” đượᴄ lặρ lại liên tụᴄ, tănɡ thêm ρhần ai ᴏán, bi thươnɡ, như là đặt nɡười nɡhе νàᴏ đúnɡ bối ᴄảnh ᴄủa một buổi chiều gió lộng trong nghĩa trang buồn, nɡhе ɾõ từnɡ lời ᴄầᴜ kinh đưa nɡười xuống mộ sâu đất lạnh

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Trời lạnh quá trời lạnh quá sao đành bỏ em một mình

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Chiều lộng gió chiều lộng gió sao anh đành bỏ em

    Lời nào đó lời nào đó
    Tiếng ân tình hay tiếng cầu kinh
    Nhạc nào đó nhạc nào đó
    Nhạc gọi người hay nhạc gọi hồn

    Đừng lặng thinh đừng lặng thinh
    Với tiếng chày tiếng búa nện đinh
    Đừng toả hương đừng toả hương
    Khói hương vàng che khuất người thương

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Đường về nghĩa trang mông mênh đừng bỏ em

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Đường về nghĩa trang lênh đênh đừng bỏ em

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Cùng một lũ cùng một lũ côn trùng rỉa rúc thân hình

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Một mồ trinh chênh vênh chờ cỏ xanh

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Đường về nghĩa trang mông mênh đừng bỏ em

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Đường về nghĩa trang lênh đênh đừng bỏ em

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Cùng một lũ cùng một lũ côn trùng rỉa rúc thân hình

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Một mồ trinh chênh vênh chờ cỏ xanh

    Đừng bỏ em một mình
    Đừng bỏ em một mình
    Vài ngàn đời sau nữa
    Vài ngàn đời sau nữa
    Vài ngàn đời sau nữa
    Ai mái tóc còn xanh

    (Lời ca khúc do nhạc sĩ Phạm Duy viết)


    Lắng nghe lời ca khúc hoà quyện trong những nốt nhạc và phần hòa âm,

    nghe mà rợn người như Thần Chết đang hiện diện đâu đây.

    Nhạc gọi hồn hay nhạc gọi người, với tiếng chày tiếng búa nện đinh, rồi nghe tiếng côn trùng rúc rỉa thân mình

    Nghe mà nổi cả da gà, ớn lạnh xương sống. Nghe trọn ca khúc là lời của cô gái trẻ vừa mới lìa đời, nằm trong quan tài mà tâm hồn vẫn quyến luyến cõi trần gian.

    Nằm trong quan tài mà linh hồn còn nghe được tiếng búa đóng những cái đinh sắt trên nắp hòm gỗ, vang vọng tiếng cầu kinh của người thân và ngửi mùi nhang khói thoảng bay.

    Rồi tiếng động va chạm khiêng quan tài, trên con đường ra nghĩa trang gập gềnh chao nghiêng.

    Nghe tiếng sợi dây thừng kéo xuống huyệt sâu, những nắm đất ào ạt đổ lên huyệt mộ rồi lấp lại. để cho một lũ côn trùng rúc rỉa thân hình.

    Đừng bỏ em một mình. Một mồ trinh chênh vênh chờ cỏ xanh. Thật là buồn thảm xót xa cho thân phận một kiếp người.

    Nhạc sĩ Phạm Duy đã để lại một ca khúc thật tuyệt vời, nói lên thân phận con người, cát bụi trở về với cát bụi. đây cũng là lẽ vô thường của tạo hoá.

    Chúng ta hãy dành cho nhạc sĩ Phạm Duy và nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh lòng tri ân và lời cảm tạ chân tình, vì chỉ có những người nghệ sĩ tài năng mới để lại những tác phẩm tuyệt vời trong kho tàng văn học nghệ thuật.

    “Không có thi nhân, không có nghệ sĩ, con người sẽ chán ngấy vì sự đơn điệu của tự nhiên.” Danh hoạ Vincent Van Gogh.

    Bài viết xin chấm dứt tại đây.

    Viết xong ngày 25 tháng 2 năm 2023

    Tế Luân

    Tài liệu tham khảo:

    • wikipedia
    • Lê Hữu – net
    • Hình ảnh minh hoạ “Google Images”

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

  • Văn

    TÔI ĐÓNG VAI PHẬT THÀNH ĐẠO – Mình Yêu Ai Nhất? – Tác Giả: Nguyên Ngọc – Hoàng Thị Quỳnh Hoa

    TÔI ĐÓNG VAI PHẬT THÀNH ĐẠO
    (Thương tặng bạn Võ Văn Ái  và những bạn đạo năm xưa.)
    Nguyên Ngọc Hoàng Thị Quỳnh Hoa

    Chuyện xảy ra hơn bảy mươi năm rồi mà tôi còn nhớ như mới đây. Những ngày tháng sinh hoạt với Gia Đình Phật Tử (GĐPT) Hướng Thiện ở Huế khi tôi mới lên Trung Học Đệ Nhất Cấp thật là thần tiên. Thiếu niên, thiếu nữ cùng trang lứa hồn nhiên sinh hoạt với nhau dưới sự dìu dắt thương mến của các anh chị trưởng. Chúng tôi học hỏi, sinh hoạt như đoàn sinh Hướng Đạo cọng thêm phần học Phật Pháp do các tu sĩ hướng dẫn. Vị thầy đầu tiên của Hướng Thiện là HT Thích Minh Châu, lúc ấy mới là Đại Đức và chúng tôi gọi thầy là Chú Minh Châu. Tôi còn nhớ đã hỏi chuyện Chú một cách ngây ngô rằng: “Thưa Chú, nếu Phật là một vị toàn năng, cái gì cũng biết thì khi em buồn, Phật biết mà tự động an ủi, em đâu cần niệm danh hiệu Phật để xin Phật giúp em bớt buồn!” Chú dịu dàng nói: “Ban đêm khi có trăng nhưng em ở trong nhà thì đâu thấy trăng được? Muốn ngắm trăng, em phải ra khỏi nhà, nhìn lên trời mới thấy. Cũng thế, em phải nghĩ tới Phật, phải cầu nguyện thì Phật mới biết.” Và con bé 13 tuổi hiểu liền và nhớ mãi cũng như nhớ bài đoàn ca Hướng Thiện:


    Chúng ta Hướng Thiện một nhà hòa vui
    Mười luật ta quyết cố gắng tiến bước
    Thờ Phật ta nhớ công đức bao la
    Tô điểm đời ta.
    Trời bừng sáng, ánh vàng thiết tha
    Một đời mới chờ đợi chúng ta
    Hằng ngày sống, gia đình hát vui,
    Mà tình mến không bao giờ phai
    Thề noi theo người xưa nêu gương sáng ngời
    Nguyện hướng thiện cho lòng muôn đời thắm tươi.

    Chủ Nhật nào chúng tôi cũng ca vang: “Chúng ta Hướng Thiện…” trong bao nhiêu năm. Không biết có phải anh Lê Mộng Nguyên làm bài này không. Anh là một trong mấy huynh trưởng của Hướng Thiện. Anh rất giỏi nhạc, đã đặt bài mừng Phật Đản: “Ngày mồng Tám tháng Tư về đây, ngày trần gian chào đón Đức Phật từ tôn chúng ta…” và nhiều bài cho chúng tôi hát.  Ngành Thiếu Nữ có bốn Chúng: Sen Trắng, Vàng, Xanh và Hồng. Mỗi Chúng có bài hát riêng do anh Nguyên đặt cho. Tôi chỉ nhớ câu đầu của Sen Trắng mà tôi là Chúng trưởng; Đào Giao Tiên là Chúng phó; hai em là Giao Châu và Giao Chi cũng ở Chúng Sen Trắng. Bài hát bắt đầu, “Chúng mình là hồn Sen Trắng…” Sen Vàng thì: “Sen Vàng chúng mình cùng tiến đều lên và hát khúc ca gia đình…” Không nhớ câu nào của hai sen kia! Về sau mấy chị em Giao Tiên theo ba mẹ vào Sài Gòn thì Đinh Thị Lệ Minh làm phó. Và khi chúng tôi đã học xong Phật Pháp cấp Chánh Thiện, đã lớn, không còn ở ngành Thiếu Nữ nữa thì đoàn Thanh Nữ Phật Tử Liên Hương được ra đời với chị Tuy An là đoàn trưởng và tôi cùng Lệ Minh làm phó cho chị. Chị Hoàng Thị Tuy An hiện nay định cư ở Cali. Một vài đoàn sinh vẫn cho nhau tin tức như Vương Thúy Nga, Vương Thúy Hoa ở Houston, Texas, Hoàng Thị Lệ Chi ở San Jose. Lệ Minh ở gần nhà và vẫn cùng tôi hát những bài ca của GĐPT mỗi khi hội họp ở nhà tôi. Hai đứa chúng tôi cuối cùng cũng nhớ được hết lời của bài đoàn ca Hướng Thiện. Tiếc thay, chị đã từ giã chúng tôi mấy năm rồi. Gần đây tôi được gặp lại một em Oanh Vũ của Hướng Thiện là Phương Lan ở Florida. Phương Lan cũng đã có cháu ngoại! Các bạn Phật tử chắc nghe biết về Sư Bà Hải Triều Âm ở Lâm Đồng. Sư Bà chu du cõi Phật cách đây mấy năm. Tiền thân Sư Bà là chị Ni, một chị trưởng của GĐPT Hải Phòng. Chị vào Huế dự một buổi họp huynh trưởng toàn quốc và ở lại nhà tôi vì cô tôi, cô Hoàng Thị Kim Cúc, là Trưởng ngành Nữ. Chị đến thăm đoàn quán chúng tôi và rất thích bài đoàn ca Hướng Thiện. Chị nói ý và lời rất hạp với tâm tư chị. Nghe đâu khi chị quyết định xuất gia, không vị thầy nào muốn nhận vì chị đẹp quá, các thầy sợ chị tu không trọn! Cô bạn cùng đi hành hương Ấn Độ với tôi năm 2004 kể như vậy. Cô Bảy đã được hầu chuyện Sư Bà Hải Triều Âm lúc cô về Việt Nam năm 2003. Sư Bà đã ngoài tám mươi nhưng vẫn miên mật tịnh tu mà còn lo trông nom mấy trăm trẻ mồ côi, mấy chục người già neo đơn đến nương nhờ cửa Phật. Tôi thấy phước duyên mình rất lớn đã có dịp biết và chiêm ngưỡng dung nhan của Sư Bà thuở trước.

    Năm tôi 14 tuổi là năm mấy GĐPT ở Huế hợp tác tổ chức làm văn nghệ ra mắt đại chúng lần đầu ở hội quán Quảng Tri. Hướng Thiện phụ trách màn Đức Phật Thích Ca Thành Đạo, là màn chính của buổi văn nghệ và tôi được chọn đóng vai Phật. Lúc đầu, nhiều thiếu niên thay nhau thử vai đó nhưng không ai được chọn vì tôi nhớ là tụi hắn không nhịn cười được khi bị bọn Ma Vương quấy phá và cuối cùng thì mấy anh chọn tôi. Chắc nhờ mặt mày tôi hiền lành phúc hậu! Mô Phật. Tôi còn nhớ là lòng dặn lòng phải nghĩ đến những chuyện buồn chán nhất trên đời để không thể cười khi bị ma quỷ chọc ghẹo và cuối cùng thì tôi cũng thành công. Mặc áo nâu tu hành, đội mũ nâu của sư, ngồi không nhúc nhích dưới cội Bồ Đề. Ma Ba Tuần sai quỷ dữ ba đầu sáu tay đến hù dọa vì chúng không muốn Phật thành đạo. Nhiều đứa đu dây từ trên cây xuống, đứa nương theo sấm sét đùng đùng, hoa gươm giáo trước mặt Phật, một hoạt cảnh rất ghê sợ mà Thái Tử Tất Đạt Đa vẫn tự tại ngồi yên. Rồi tôi từ từ đứng dậy xua đuổi ma vương. Chúng biến hết và cùng lúc ấy cả rạp đứng lên chắp tay đảnh lễ. Tôi sợ quá quên cả câu phải nói. Cô tôi đứng sau cánh gà vội nhắc: “Em nói đi, Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành.” Và tôi nói lớn câu đã học thuộc lòng. Vì ngồi yên suốt thời gian ma vương quấy phá, khán giả tưởng tôi là pho tượng đặt dưới gốc Bồ Đề. Cả rạp giật mình khi thấy “tượng” từ từ đứng dậy và không hẹn mà ai cũng vội đứng lên chắp tay vái. Tôi thật bối rối và lo sợ. Về sau tôi phàn nàn với cô tôi là “họ lạy vậy, em tổn thọ chết” và cô giảng giải là “Họ lạy Phật chơ lạy chi em.” Nghe vậy tôi cũng yên lòng. Sau này khi kể với mấy sư cô ở chùa Viên Ân gần nhà thì cô Viên Huệ dạy nếu lúc ấy mà đeo tượng Phật trước ngực thì ổn rồi vì đại chúng lạy như vậy là lạy Phật. Tôi không nhớ hồi đó có đeo tượng Phật không! Phải chi hồi đó có recorder thì nay tôi có thể cho bạn bè xem vai tôi diễn Phật chinh phục ma vương oai nghi như thế nào! À có chuyện vui vui mà bây giờ tôi mới biết. Tôi nhớ bạn Võ Văn Ái là một trong mấy ma vương. Ái muốn hỏi xem bạn Đỗ Đình Kỳ có làm ma không thì anh Kỳ cho biết trước khi trình diễn, anh leo lên trần nhà xếp đặt thì bị té trặc chân, phải về nhà trị thương và anh không được xem màn diễn đó. Thiệt xui xẻo! Cũng hôm đó, tôi còn đóng vai một ni cô đi thăm viện mồ côi. Chị họ tôi, Phan Đình thị Minh, mặc áo ni cô đi cùng vì ni cô không ra đường một mình. Và Đặng Ngọc Ấn của GĐPT Hương Từ đóng vai cậu bé mồ côi. Khi ni cô ra về, cậu bé níu áo đòi đi theo làm tôi giật mình vì khâu này không có trong kịch bản. Màn adhoc này làm khán giả thêm mũi lòng, càng thương cậu bé mồ côi.


    Đã hơn 70 năm qua rồi mà những hình ảnh sinh hoạt với GĐPT Hướng Thiện còn rất rõ trong bộ nhớ, những ngày họp cuối tuần, những lần cắm trại, trò chơi lớn, làm bích báo, văn nghệ, những buổi học Phật Pháp thật là những ngày hạnh phúc. Ngoài vai diễn Phật thành đạo, tôi cũng được chọn đóng vai chính trong vở kịch thơ nổi tiếng Lý Chiêu Hoàng của nhà văn Phan Khắc Khoan do anh Đĩnh đạo diễn. Anh Trần Tán Đĩnh theo gia đình từ Hà Nội di cư vào Huế và gia nhập đoàn Hướng Thiện cùng hai cô em là Mạnh Quang và Thục Chiêm, bạn học cùng lớp với em tôi, Hoàng thị Hỷ Nguyên. Em út Hoàng Thiện Căn của tôi cũng sinh hoạt với nhóm Đồng Niên. Hướng Thiện Kim Quy đóng vai Trần Cảnh. Nguyễn Thị Kim Quy là bạn học Đồng Khánh với tôi. Hiện Kim Quy định cư ở Nam Cali. Không biết Kim Quy còn nhớ vai kịch không chứ tôi nhớ được mấy câu trao đổi giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh.


    LCH:
    Xem thánh thượng hôm nay bất thường chăng, có lẽ.
    Hay làm sao tiện thiếp thấy âu sầu.
    Nguồn cơn kia thiếp không rõ vì đâu?


    TC:

    Không khanh hỡi, có những lúc trời xa mây gió nổi,
    Mà nơi đây cảnh vật cũng u buồn.
    Nước sông trôi tuôn chảy tự trên nguồn!


    Ôi, nhớ được chừng đó thôi. Chúng tôi đã làm khán giả rơi lệ và như vậy là thành công lắm! Nghĩ lại không biết sao hồi đó mình giỏi vậy, đóng kịch thơ mà lại nói tiếng Bắc kỳ nữa. Phải phục tài đạo diễn giỏi. Anh dạy cho tôi đọc thơ tiếng Bắc, cả một vở kịch dài. Kim Quy thì tài lắm, học rất mau, nói tiếng Bắc được liền, bộ dạng đàn ông trong vai vua rất oai. Đạo hữu Tâm Phát Nguyễn Quang Lạc ở chùa Hoa Nghiêm, VA còn giỏi hơn tôi. Anh nhớ anh cũng có mặt trong buổi văn nghệ ở Hội Quán Quảng Tri hôm đó mà anh chỉ mới 6, 7 tuổi chi thôi, là Đồng Niên của GĐPT An Thiện (hay Minh Đạo, anh không nhớ rõ!) ở An Cựu. Anh nhớ anh độc diễn bài hát Thằng Tôi, vừa hát vừa làm bộ điệu:

    Thằng tôi có cái đầu rất to là rất to. (hai tay sờ đầu)
    Cái cằm nho nhỏ
    (sờ cằm)
    Cái trán vồ vồ
    (sờ trán)
    Đôi môi thâm đen
    (sờ môi)
    Tình tang… tình tang…
    Đôi mắt hung hăng như đôi mắt mèo
    Chân tay ngoằn nghèo như thể lẻ tre
    Mỗi lần chân bước giống như con bò
    Ọ… i… è … ọ… i… è…

    (hết)

    Hết bài, cậu nhỏ mừng quá, lật đật bước xuống liền, quên chào! Khán giả vỗ tay vang rần khen chú Đồng Niên bé xíu thuộc hết bài hát, còn tỉnh bơ làm bộ điệu nữa. Màn độc diễn của bé Lạc dĩ nhiên là thành công lớn nên anh nhớ đến bây giờ, nhớ thời oanh liệt nay còn đâu!


    Tôi cũng còn nhớ giai thoại bài hát Mầm Măng xuất xứ từ GĐPT Tịnh Trang ở Cầu Đất trong Thành Nội. Hồi ấy tôi nghe kể rằng một anh Hướng Đạo Công giáo thấy mấy em nhỏ sinh hoạt dễ thương ở GĐPT Tịnh Trang nên anh tặng bài hát đó cho mấy em. Không biết tôi nhớ có đúng không. Tôi liên lạc với Huế và Mai Quang Châu của Hướng Thiện gởi cho tôi bài Mầm Măng với nhạc nữa. Anh báo cáo là Đặng Ngọc Thanh Nhã tìm ra. Tôi gọi về hỏi thì Thanh Nhã cho biết em trai là Phú Hòa đã tìm được bản nhạc mà cũng không biết tác giả là ai! Thanh Nhã nói mấy chị em của em là thành viên GĐPT Thuận Hóa và bài Mầm Măng là đoàn ca của Oanh Vũ Thuận Hóa. Tôi lại gọi về Huế nói chuyện với M Q Châu. Anh Châu cho rằng bài Mầm Măng là của anh Cang vì những Phật tử lứa chúng tôi anh liên lạc được đều cho là của anh Cang. Tôi thì vẫn không tin chắc tác giả là ai vì tại sao tôi lại nhớ giai thoại kia. GĐPT Tịnh Trang là địa bàn của Huynh trưởng Hoàng Trọng Cang, chị Huệ, Chị Tuy An. Anh Cang cũng giỏi nhạc, đặt nhiều bài hát cho các em mà bài phổ thông nhất là bài Dòng A-Nô-Ma, ghi lại chuyện Thái tử Tất Đạt Đa giã từ Xà Nặc và con ngựa Kiền Trắc ở dòng sông này:

    Dòng A-nô-ma sóng nhấp nhô bờ lau xanh,
    Nhìn làn nước biếc, Thích Ca ngài lòng vững bền
    Thôi em ơi hãy về để ta vui ánh vàng
    Ta đã quyết tìm đạo sáng cứu chúng sinh
    A-nô-ma vẫn còn nhớ ghi gương sáng ngời
    Chúng ta giờ đây nguyện theo đức từ bi.

    (Cám ơn bạn Lương Trinh, GĐPT Hương Đàm ở Từ Đàm, đã nhớ trọn bài hát này. Tôi chỉ nhớ câu đầu!)

    Anh Cang là tác giả của nhiều bài hát cho sinh hoạt GĐPT, và vì vậy tuy không tìm ra nguồn tin chắc chắn xuất xứ của bài Mầm Măng, mấy anh em cho rằng bài ấy là của anh Cang. Tôi thì vẫn hoang mang không hiểu sao mình lại nhớ câu chuyện anh Hướng Đạo Công giáo! Xin ghi lại đây bài Mầm Măng mới nhận được từ Đặng Ngọc Phú Hòa ở Huế:

    Rất cám ơn giáo sư âm nhạc Phan Thanh Thu, huynh trưởng GĐPT Đà Lạt, đã hoan hỷ ghi nốt nhạc cho bài đoàn ca Hướng Thiện. Xin mách nhỏ với các bạn là cũng nhờ sinh hoạt GĐPT mà anh Thu cưới được người vợ duyên dáng đảm đang. Chị Võ Đình Mỹ Ngọc thú nhận với tôi là anh chị phải lòng nhau khi anh là huynh trưởng ngành Thiếu Niên và chị là huynh trưởng ngành Thiếu Nữ GĐPT ở Đà Lạt. Âu cũng là mối lương duyên trời định. Khi tôi nhờ anh ghi nốt nhạc, anh Thu bỗng nảy ra ý kiến muốn gom góp hết tất cả những bài hát sinh hoạt GĐPT có cả nốt nhạc vào một tuyển tập bài ca cho GĐPT ở hải ngoại sử dụng, từ bài Sen Trắng đến Giây Thân Ái. Tôi hoan nghênh sáng kiến này.

    Chỉ mấy năm sau biến cố 75, GĐPT lại xuất hiện ở những nơi có người Việt định cư. Tôi đã giúp chương trình dạy tiếng Việt cho GĐPT Hoa Nghiêm ở Virginia những năm đầu. Rất cảm động thấy mấy em lớn, nhỏ sinh hoạt dưới sự dìu dắt của các anh chị trưởng mỗi ngày Chủ Nhật trong một xã hội nhiều cám dỗ, nhiều thú vui ngoài đời. Phụ huynh cũng hết lòng hỗ trợ, tiếp tay với các huynh trưởng trên bước đường tu học của con em mình. Thật đáng mừng trông thấy GĐPT Hoa Nghiêm ngày nay đã có trên 100 thành viên.

     
    Năm 2018, một nhóm bạn GĐPT Hướng Thiện đinh cư ở nước ngoài hẹn gặp nhau tại Huế vào dịp Tết. Cuối cùng thì chỉ có anh Đỗ Đình Kỳ ở Cali, anh Nguyễn Kỳ ở Sydney và tôi về được và gặp lại vài bạn Hướng Thiện ở Huế, anh Mai Quang Châu, chị Nguyễn Kim Bông với một chị trưởng, chị Quý đã ngoài 90. Chị Quý vẫn ở chỗ cũ, đường Âm Hồn ở Thành Nội, nơi mà chúng tôi chiều nào cũng đến tập dượt vở kịch thơ Lý Chiêu Hoàng trong nhiều tháng. Anh Đỗ Đình Kỳ còn nhớ địa chỉ Hội Quán Quảng Trị vì ngày trước gia đình anh ở gần đó. Anh hướng dẫn chúng tôi đến nhìn lại con đường cũ cùng nơi chốn xưa. Anh cũng nhớ địa chỉ hội quán của GĐPT Hướng Thiện. Chúng tôi phục anh quá. Rồi anh hướng dẫn chúng tôi đi thăm lăng Thiệu Trị, rất đẹp và thơ mộng mà ít ai nhắc tới và cũng lần đầu tiên tôi được thăm lăng Gia Long. Chúng tôi cũng nhờ anh Tuấn, tài xế taxi, đưa đi ăn tất cả những món ăn đặc trưng của Huế, bún bò mụ Hạnh, bánh canh Nam Phổ, bánh ướt thịt nướng Kim Long, nậm, bèo, lọc ở tiệm Hạnh ….

    Giờ đến tuổi ‘gần trời xa đất‘ rồi – cụm từ của ông xã tôi đặt vì anh nói mình là người hiền lành, biết làm lành lánh dữ thì khi rời Cõi Tạm sẽ được đi lên – tôi cảm thấy mình rất may mắn được sinh ra trong một gia đình biết Phật, được nuôi dưỡng trong một môi trường thuận lợi cho mình được tiếp cận Phật Pháp suốt cả cuộc đời mà lại được duyên may đóng vai Phật thành đạo nữa. Thật hy hữu!

    Ghi chú

    Tết năm ni (2021), tôi liên lạc được với chị Hoàng Thị Tuy An, em ruột anh Hoàng Trọng Cang, chị cho biết anh Cang đặt rất nhiều bài hát nhưng anh không phải tác giả bài Mầm Măng. Cám ơn chị đã giúp giải tỏa nghi vấn này.

    Nguyên Ngọc Hoàng Thị Quỳnh Hoa

    Mình Yêu Ai Nhất?     

              Mình yêu mình nhất! Câu trả lời này có đáng được lãnh giải trên Chương Trình Đố Vui Để Học không? Nhiều người nhiều ý. Chưa hẵn giải đáp này là đáp số đúng! Từ hồi Phật còn tại thế, vua Ba Tư Nặc đã từng hỏi hoàng hậu, hay còn được biết là Mạt Lợi Phu Nhân:

    “Trên đời này, ái khanh yêu ai nhất?” Xin ghi lại đây cuộc đối thoại thú vị giữa vua và hoàng hậu.

    Phu nhân Mạt Lợi đáp: – Dĩ nhiên, người thiếp yêu nhất chính là bệ hạ.

    Vua Ba Tư Nặc nói: – Trẫm cũng đoán rằng khanh sẽ nói như thế.

    Phu nhân Mạt Lợi mỉm cười: – Tâu bệ hạ, nếu thánh thượng cho phép, thần thiếp sẽ nói khác đi một tí, nhưng xác thực hơn.

    Vua Tư Nặc bảo: – Khanh cứ nói.

    Phu nhân Mạt Lơi thưa: – Tâu bệ hạ người mà thần thiếp yêu quý nhất, chính là thần thiếp.

    Vua Ba Tư Nặc ngạc nhiên: – Sao? Mình lại yêu mình? Trẫm không hiểu khanh muốn nói gì?

    Phu nhân Mạc lợi thưa: – Tâu bệ hạ, vì có ái trọng tự ngã mình, nên thần thiếp mới yêu thương bệ hạ, vì bệ hạ là người đem lại hạnh phúc cho cái tự ngã này.

    Vua Ba Tư Nặc nói: – Trẫm biết điều đó, nhưng vẫn chưa hiểu rõ ý khanh.

    Phu nhân Mạt Lợi dè dặt: – Tâu bệ hạ, thần thiếp mạn phép nêu ra một câu hỏi: – Trên đời này bệ hạ yêu thương ai nhất?

    Vua Ba Tư Nặc cười: – Ái khanh chứ còn ai!

    Phu nhân Mạt Lợi hỏi tiếp: – Giả sử thần thiếp yêu thương một người đàn ông khác thì bệ hạ sẽ làm gì?

    Vua Ba Tư Nặc lúng túng: – Trẫm sẽ…, trẫm sẽ…

    Phu nhân Mạt Lợi tiếp lời: – Bệ hạ sẽ nỗi trận lôi đình, chém đầu thần thiếp ngay lập tức phải không?

    Vua Ba Tư Nặc giả lả:- Khanh hỏi rắc rối quá! Rắc rối thật!

    Phu nhân Mạt Lợi hỏi: – Tâu bệ hạ, có đúng thế không ạ?

    Vua Ba Tư Nặc ú ớ: – À à…

    Phu nhân Mạt Lợi hỏi dồn: – Đúng, phải không bệ hạ?

    Vua Ba Tư Nặc nín lặng giây lâu rồi nói: – Có lẽ khanh nói dúng.

    Phu nhân Mạt Lợi mỉm cười: – Thế là bệ hạ đã đáp câu hỏi của thần thiếp rồi!

    Yêu người ta nhất đời mà người ta yêu kẻ khác thì chặt đầu. Như vậy có yêu nhất đời chưa? Nếu yêu nhất đời thật, thì dù người ta có yêu ai khác, mình cũng vẫn yêu họ. Thế mà người ta không thương mình thì mình chặt đầu, vậy thương đó là vì ai? Thương đó là vì mình! Mình chỉ thương mình thôi! Tất cả mọi đối tượng mà mình thương mến đều vì mình mà mình thương, thương qua tự ngã đó vậy.

              Hôm sau vua Ba Tư Nặc xa giá đến tịnh xá Kỳ Viên thăm Phật, và trình bày câu chuyện đối đáp đáp giữa vua và hoàng hậu. Phật xác nhận ý kiến của phu nhân Mạt Lợi qua bài kệ như sau:

                        Tâm ta đi cùng khắp

                        Tất cả mọi phương trời

                        Cũng không tìm thấy được

                        Ai thân hơn tự ngã

                        Đi tìm khắp phương trời

                        Cũng không tìm đâu thấy

                        Ai thân hơn tự ngã

                        Vậy ai yêu tự ngã

                        Chớ hại tự ngã người.

    (Câu chuyện xuất xứ từ kinh A Hàm, trích từ bài pháp của thầy Thanh Từ Trúc Lâm nói với chư tăng ni thiền viện Thường Chiếu ngày Rằm, tháng Tám, năm Canh Ngọ (1990).

              Khái niệm mình thương mình nhất, hay tất cả những hành động, cư xử của mình đối với mọi sự mọi vật trên đời đều do sự vận hành của ái trọng tự ngã, nghĩa là mình cư xử theo tâm vị kỷ, sau khi cân nhắc đắn đo xem cách cư xử ấy có lợi cho mình không! Mới nghe chắc nhiều người phản đối vì họ nghĩ họ có tấm lòng vị tha, thích giúp đỡ người khác, và đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy trên đời có rất nhiều người quên mình phục vụ tha nhân như Mẹ Teresa, những nữ tu tận tụy suốt cuộc đời mình săn sóc người cùi, săn sóc trẻ mồ côi… Nhưng trong thâm tâm sâu thẳm của họ có thật họ thương người khác đủ để hy sinh cả đời mình không? Mời quý vị nghe câu trả lời của ông La Rochefoucauld, một triết gia quý tộc người Pháp thế kỷ thứ 17, người sinh sau Đức Phật hơn 2000 năm. La Rochefoucauld (1613-1680) cũng quan niệm con người yêu thương mình nhất và lúc nào cũng nghĩ cách cư xử có lợi cho mình thì mới làm. Những nhà phê bình thời ông cho rằng ông rất thành thật với chính mình. Ông quan sát mọi người chung quanh trong nhiều tình huống và đưa ra những kết luận khách quan, những “sự thật đau lòng”. Ông vạch ra giá trị đáng nghi ngờ của các đức hạnh (les vertues – the vertues) của người đời như tình yêu, tình bạn, lòng bác ái… Ông kết luận: “Chúng ta có lẽ sẽ nhiều phen xấu hổ về những hành động đẹp nhất của mình nếu thiên hạ biết đến tất cả những động lực nào đã khiến chúng ta hành động như vậy” (Nous aurions honte de nos plus belles actions si le monde voyait tous les motifs qui les produisent.) Triết lý của ông bi quan yếm thế, không tin cái tốt của con người, cho rằng tính ích kỷ và lợi ích cá nhân là động cơ đằng sau tất cả hành động của con người. Ông đưa ra trường hợp người phụ nữ đứng đắn có thể chỉ vì họ muốn giữ danh giá để tránh sự cười chê, sự phê bình phiền toái của thiên hạ, hay người từ chối lời khen chẳng qua chỉ muốn được khen lần nữa! Xét cho cùng, ngay cả tình mẹ thương con bao la như biển Thái Bình cũng chưa chắc là tình yêu vô vị lợi! Mẹ thương con nhường chỗ ráo con nằm, chỗ ướt mẹ lăn. Hỏi thử xem có bà mẹ nào dành nằm chỗ ráo để con nằm chỗ ướt không, có mẹ nào chịu được cảnh thấy con mình “khổ” mà làm ngơ, không có phản ứng gì? Và phản ứng của bà thể hiện lòng ái trọng tự ngã, bà không thể chịu đựng được cảnh con mình chịu khổ nên phải hành động, hành động là để cho lòng mình vơi khổ, là vì mình thương mình, thương con qua tự ngã của mình! Mẹ thấy con người khác khổ mẹ cũng có chút thương hại nhưng không làm gì, không nhường chỗ ráo cho con hàng xóm! Mẹ thương con như trời biển nhưng là con mình, con hư mẹ càng thương, chứ con riêng của chồng mẹ cũng không quan tâm. Nhiều bà mẹ ghẻ còn ghét con chồng, đày đọa con chồng vì ghen với người đàn bà chồng mình đã từng thương yêu dù người ấy đã khuất! Tôi vẫn còn nhớ bài thơ ngụ ngôn được học từ thưở nhỏ, một trong 24 bài (nhị thập tứ hiếu) nói về lòng hiếu của người xưa bên Tàu! Bài này cũng có bàn tới cách cư xử của mẹ ghẻ với con chồng khi kể chuyện thầy Mẫn Tử:

    Thầy Mẫn Tư rất đường hiếu để,

    Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu.

    Sớm khuya tối viếng trưa hầu,

    Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.

    Trời đương tiếc đông hàn lạnh lẽo,

    Hai em thời áo kép mền bông.

    Chẳng thương chút phận long đong,

    Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân.

    Khi cha dạo theo chân xe đẩy,

    Rét căm căm nên sẩy rơi tay.

    Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay,

    Nghiến răng rắp cắt đứt giây xướng tùy.

    Sa nước mắt chân quỳ miệng gởi,

    Lạy cha xin xét lại nguồn cơn,

    Mẹ còn chịu một thân đơn,

    Mẹ đi luống những cơ hàn cả ba.

    Cha nghe nói cũng sa giọt tủi,

    Mẹ nghe rồi cũng đổi lòng xưa.

    Cho hay hiếu cảm nên từ,

    Thấm lâu như đá, cũng từ lọ ai.

    Tôi cũng còn nhớ đọc đâu đó câu chuyện của một đứa trẻ mồ côi mẹ được thương yêu như con ruột. Bà mẹ ghẻ này là một ngoại lệ vì, “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ có thương con chồng.” nhưng đứa bé được thương yêu ngang với đứa em khác mẹ này lại có tâm vị kỷ, muốn dành tình thương yêu cho riêng một mình mình nên đã khấn vái lớn tiếng trước bàn thờ ông bà cầu xin cho đứa em đó chết đi! Bà mẹ ghẻ tình cờ nghe được, trong lòng sợ hãi, ngao ngán! Có được mấy người làm từ thiện vì thật lòng thương người hay chỉ muốn khoe của, mua danh! Trường hợp người làm từ thiện có lòng từ thật, nhưng họ dấn thân cứu khổ thì cũng chỉ vì họ không chịu được thấy khổ mà không cứu khi họ có phương tiện. Họ muốn làm việc thiện để thỏa mãn lòng từ của họ! Đó cũng là một biểu hiện của ái trọng tự ngã! Nhiều người thích khuyến khích người khác làm việc thiện mà của của mình thì khư khư giữ chặt là hạng “của người Bồ tát, của mình buộc lạc.” La Rochefoucauld nhìn con người đầy tội lỗi, không tin cái tốt của con người. Ông không tin “Nhân chi sơ, tính bổn thiện” của Khổng Tử, Mạnh Tử. Triết lý sống của ông gần với triết lý của Tuân Tử là con người sinh ra tính bổn ác! Ông cho rằng trên đời không có người nào tử tế cả, kể cả vợ chồng. Có lẽ ông chứng kiến quá nhiều cuộc tình vụng trộm, quá nhiều cảnh vợ chồng phản bội nhau trong giới quý tộc quanh ông nên ông nhận định,  trong Tập Cách Ngôn (Maximes, xuất bản năm 1665 gồm 500 câu): “Hôn nhân là cuộc chiến duy nhất mà người ta ngủ với kẻ thù.” (Le marriage est la seule guere dans laquelle vous couchez avec l’ennemi). Ông cũng không tin tưởng lắm về tình bạn: “Khi những người bạn thân nhất của ta gặp hoạn nạn, ta cũng thường xét xem thấy có điều gì đó không hẵn là không thú vị.” (Dans l’adversité de nos meilleurs amis, nous trouvons toujours quelque chose qui ne nous deplait pas.) Và ông kết luận con người bẩm sinh ích kỷ, không thương tưởng ai hết, chỉ thương một mình mình thôi, giống như ái trọng tự ngã của nhà Phật! Các cụ xưa hiểu rất rõ tâm lý mình thương mình nhất nên đã có những bài luân lý dạy trẻ con phải biết thương người khác như thương mình. Bài học thuộc lòng từ bậc tiểu học còn rõ ràng trong trí nhớ của tôi:

    Thương người như thể thương thân.

    Thấy người hoạn nạn thì thương,

    Thấy người tàn tật lại càng trông nom,

    Thấy người già yếu ốm mòn,

    Thuốc than cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.

    Trời nào phụ kẻ có nhân,

    Người mà có phúc, muôn phần vinh hoa!

    Ở cõi giới Ta Bà này, có ai thương người hơn thương mình không? Có ai thương người khác mà không qua tự ngã không? Xet cho cùng thì ông La Rochefoucauld cũng không quá đáng lắm khi ông cho rằng con người vốn có tính ích kỷ, và lợi ích cá nhân là động cơ đưa đẩy tới mọi hành động, tốt cũng như xấu. Và như vậy dường như ông đồng ý với triết lý ‘Tính bổn ác’ của Tuân Tử. Theo Đức Phật thì khi sinh ra, con người không ác, không thiện mà chỉ mang theo mình những nghiệp lành, nghiệp dữ tích tụ nhiều đời. Ái trọng tự ngã là bẩm sinh. Và vì vậy, Phật dạy nên nuôi dưỡng lòng từ để dần dần ái trọng tự ngã được thay thế bởi tấm lòng vị tha, không những thương người đồng loại mà con thương tưởng đến loài vật, tôn trọng sự sống của cả cỏ cây.

    Nguyên Ngọc Hoàng Thị Quỳnh Hoa

    Westminster, cuối May 2022.

  • Thơ,  Văn

    TẢN MẠN: ẢO GIÁC TÌNH THƠ + BÍ KÍP THỰC HƯ & CHÙM THƠ VỀ NHỮNG NỤ HÔN – CAO MỴ NHÂN

    Ảo Giác Tình Thơ

    Cao Mỵ Nhân

    Chuyện tình của quý vị cao niên nếu có thì lớp hậu sinh cũng nên trân trọng.

    Tôi vốn là người trọng nguyên tắc thời gian, thường làm cái việc vô tích sự là cứ tẩn mẩn tính tháng, tính năm cho mỗi tuổi tác các quý vị nhân vật chính cao niên, có thể là lão niên nữa.

    Số là hôm nay tôi được đọc truyện ngắn Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy từ năm 1937, rồi đăng lại năm 1939 cũng trên tờ báo ấy, sau khi những bài thơ của tác giả T.T.Kh. được tung ra ở Bắc Việt, giai thoại đó già hơn tôi mấy tuổi lận.

    Thế thì câu chuyện Hoa ti gôn nào có chi bi thảm, tác giả T.T.Kh. và ông họa sĩ trẻ tên Lê Chất chỉ hoàn toàn tình cờ, nhẹ nhàng như bất cứ cặp nam nữ trẻ trung thời nào cũng có thể xảy ra, chỉ qua những cái nhìn ấn tượng. Rồi có thể ai nấy sẽ quên đi mối tình thoang thoảng, hay thấp thoáng cũng được.

    Thực ra trong truyện ngắn Hoa ti gôn, T.T.Kh. không phải là nhân vật nữ của họa sĩ Lê Chất mà người nữ đó tên Mai Hạnh, sau lấy chồng giàu có là một viên chức của Tòa lãnh sự Pháp. Lê Chất đã là một họa sĩ danh tiếng được Tòa lãnh sự Pháp mời dự tiệc ở Vân Nam.

    Qua bữa tiệc, họa sĩ Lê Chất đã tỏ bày lòng yêu thương với Mai Hạnh và chết nỗi thời gian tưởng trôi qua cả chục năm, giờ lại tái phát cuộc tình trễ muộn, lỡ làng… Tất nhiên có những phút giây không hợp với xã hội Việt Nam thủa thượng bán thế kỷ 20 là Lê Chất rủ Mai Hạnh bỏ trốn qua Nhật, thoạt thì Mai Hạnh phu nhân viên chức X. tòa lãnh sự bằng lòng, sau suy nghĩ lại đã từ chối chuyến đi định mệnh bỏ gia đình theo người tình gặp lại, vân vân và vân vân.

    Và thế nên Hai sắc hoa ti gôn được T.T.Kh. gởi đăng báo sau bài Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu. Sự kiện tưởng như là từ một nguyên do: truyện ngắn Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu (sinh 7 – 9 – 1912, mất 8 – 5 – 2007, thọ 95 tuổi) đăng báo năm 1937, kế tới bài thơ Hai sắc hoa ti gôn của T.T.Kh., không rõ tên thật nên làm sao biết tuổi tác, cũng đăng báo năm 1937 ấy.

    Có thế thôi, thế là hết câu chuyện tình… bình thường, như khá nhiều chuyện tình của thiên hạ, có điều đoạn thơ thê thảm của bài Hai sắc hoa ti gôn (khổ thơ thứ 7 trên 11 khổ thơ thất ngôn), T.T.Kh. viết:

    Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
    Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
    Mà từng thu chết, từng thu chết
    Vẫn giấu trong tim một bóng người…

    (T.T.Kh.)

    …làm cho cả một thời đại xúc động, cả một thế hệ người tình xao động, cho tới bây giờ 78 năm, văn học sử và quý độc giả vẫn chưa giải mã được ẩn danh, ẩn tích T.T.Kh. là ai.

    Khoảng 21 năm trước, hai tác giả Thế Phong (miền Nam) và Trần Nhật Thu (miền Bắc) tạo ra một làn sóng văn chương, viết nên một… giai thoại kế thừa Hoa ti gôn của Thanh Châu và T.T.Kh.:

    T.T.Kh. là ai?

    Giai thoại bí ẩn 57 năm được giải mã

    Tôi nhớ đại khái thế vì tên sách hơi dài, vả chăng tôi không định nói về cuốn sách của Thế Nhật nêu trên, mà tôi định góp ý… thô thiển về trường hợp sách được phát hành rộng rãi ở Việt Nam, bên cái xã hội chủ nghĩa xa vời mà thôi.

    Khi thấy tuần báo Dân ta ở Texas đăng từng kỳ cuốn sách Thế Nhật, tôi chưa biết… phải làm gì. Lý do hai tác giả trên khẳng định nữ sĩ Vân Nương ở hội thơ Quỳnh Dao đều bất bình, không cảm thấy vui, bởi lẽ nữ sĩ Vân Nương, một trong bốn nữ sĩ sáng lập hội thơ Quỳnh Dao (Mai Oanh, Đinh Thị Việt Liên, Thu Nga, Vân Nương đã mời các nữ thi sĩ chuyên thơ Đường luật tham dự năm 1961 ở Sài Gòn mà tôi lại là người tham gia cuối cùng năm 1979, được gọi em út Quỳnh Dao, thế chỗ Tôn Nữ Hỷ Khương lên hàng áp út),chẳng lẽ tôi không lên tiếng sao?!

    Còn đang loay hoay, thì nhà văn Đặng Trần Huân cười nói:

    Cao Mỵ Nhân không lên tiếng thì ai nói rõ ra việc đó, các bà chị lớn của cô không bao giờ… trả lời vụ này đâu.

    Tôi đã tức tốc viết một bài, cũng không có ý tranh cãi, nhưng để thanh minh nữ sĩ Vân Nương không thể nào là T.T.Kh. được. Tên bài viết của tôi:

    T.T.Kh. hậu chiến

    Tuy đề bài có vẻ khôi hài nhưng nội dung đan cử rất nhiều chi tiết cần thiết đính chính nữ sĩ Vân Nương không phải T.T.Kh. Chỉ căn cứ vào cuộc đời thực tế và văn chương, nữ sĩ Vân Nương không và chắc chắn không thể là T.T.Kh. được.

    Nữ sĩ Vân Nương tên thật là Trần Thị Vân Chung, phu nhân của luật sư Lê Ngọc Chấn, nguyên bộ trưởng Bộ quốc phòng thời Đệ nhất Cộng hòa, nguyên đại sứ hai nhiệm kỳ ở Anh Cát Lợi và Tunisie.

    Ông bà đại sứ luật sư đương nêu trở về Việt Nam trước 30 – 4 – 1975 để chuẩn bị đi đại sứ ở một nước khác …trừ đổi đời, luật sư Lê Ngọc Chấn phải đi tù cải tạo ở nhiều trại ngoài Bắc rồi trở về Nam, sau qua đời vì bệnh tim năm 1986 ở Sài Gòn.

    Đám cưới của luật sư Lê Ngọc Chấn và nữ sĩ Vân Nương ở Thanh Hóa năm X. có hai nhà thơ lớn tiền chiến phụ rể là Huy Cận và Xuân Diệu.

    Ông bà Lê Ngọc Chấn, Vân Nương sống rất hạnh phúc, được bốn người con, hai trai, hai gái. Cô con gái đầu một thời đã xuất bản tập thơ Y., sau thành hôn với một nhà quý tộc nước Ý. Những người còn lại hiện đang cùng con, cháu ở Pháp.

    Nữ sĩ Vân Nương sinh năm 1920 nên năm nay đã 95 tuổi.

    Cách sống đức hạnh của bà đã viết những vần thơ vô cùng phẩm chất, đã xuất bản hai tập thơ tình cảm chân chất, và tập thơ đạo Đi tìm lý tưởng theo bước chân thiện tài, tầm sư, học đạo, sau đổi là Con đường lý tưởng.

    Thế sao lại có huyễn thoại, tôi phải nhấn mạnh là huyễn thoại T.T.Kh. nàng là ai như Thế Nhật viết chứ?

    Số là có hai vị nữ lưu tài sắc rất đáng ngợi ca, từ nhiều năm trước đã nổi tiếng là những trang quốc sắc. Đó là nữ sĩ Vân Nương và nữ sĩ Thư Linh, phu nhân của vị tổng giám đốc Z. họ Nghiêm ở Sài Gòn trước 30 – 4 – 1975.

    Nhị vị nữ sĩ thường đến nhà nhau đàm đạo thơ ca cổ kim, trong số có giai thoại Hai sắc hoa ti gôn – nữ sĩ Vân Nương vốn ở Thanh Hóa, là chị ruột của bà Trần Thị Anh Minh, phu nhân nhà thơ Hà Thượng Nhân, bản tính vui vẻ, bặt thiệp, đôi khi cũng bông đùa kiểu chị em bạn gái.

    Một lần nào đó tôi được nghe hai thi sĩ cười giỡn, vui đùa:

    Chị Vân Nương ở Thanh Hóa thì đúng rồi, T.T.Kh. chứ còn ai.

    Nữ sĩ Vân Nương hóm hỉnh trả lời:

    Thì T.T.Kh. đấy, làm sao biết được.

    Tất nhiên không phải câu chuyện ngắn gọn như vậy, có nhiều điều dài dòng hơn, tôi chỉ đề cập tới hai câu đối thoại dính tới danh xưng T.T.Kh..

    Cả mười mấy năm sau, cuốn sách T.T.Kh. là ai được tung ra. Sách mỏng nhưng đập vào thị hiếu độc giả trong nước, gây phiền toái cho cá nhân nữ sĩ Vân Nương, gia đình và chúng tôi, những thành viên trong thi đàn Quỳnh Dao. Khiến nữ sĩ Mộng Tuyết niên trưởng Quỳnh Dao quốc nội bất bình, nữ sĩ Trùng Quang niên trưởng Quỳnh Dao hải ngoại khó chịu không kém.

    Năm ấy 1995, tai họa T.T.Kh. là ai áp đặt vào nữ sĩ Vân Nương khiến bà phải khẳng định ngay hoàn cảnh và lập trường. Từ đấy sau bút danh Vân Nương có ba chữ Lê Ngọc Chấn để không cần phải đính chính. Bằng những nụ cười nhạt, nữ sĩ Vân Nương đã trả lời mấy cuộc phỏng vấn báo chí. Đồng thời dư luận bạn đọc cũng chẳng ai tin những điều viết trong cuốn sách T.T.Kh. là ai , bởi lẽ độc giả Việt Nam rất đơn giản nhưng cũng rất quyết đoán, phải có bằng chứng xác thực họa may mới gọi là khả tín.

    Tới nay đã 20 năm qua, tôi được đọc truyện ngắn Hoa ti gôn của nhà văn tiền chiến Thanh Châu, phân tích sự việc ngoài đời và chủ nghĩa mới hay có nhiều sự hiểu lầm đáng tiếc: nào là nhà văn Thanh Châu đó cũng có quen với gia đình nữ sĩ Vân Nương, nào là luật sư Lê Ngọc Chấn phu quân nữ sĩ cũng là một nhà ngoại giao… gộc, vân vân và vân vân, thì cái ảo giác cứ lan man đối với những người ưa tưởng tượng, huống chi tất cả xuất phát từ Vườn Thanh (Thanh Hóa).

    Nhưng cho dẫu suy diễn, tưởng tượng… vẫn chỉ là phỏng đoán, nôm na gọi là đoán mò thì cũng sẽ rơi vào quên lãng những hoa, lá, cành về T.T.Kh.. Còn giai thoại T.T.Kh. vẫn tồn tại như những chuyện cổ tích, không nhất thiết phải hay nhưng lạ thì chắc chắn rồi.

    Hôm nay bên trời Pháp Quốc, ở một vùng thuộc miền Nam ấm áp, nữ sĩ Vân Nương đã 95 tuổi rồi, không gian đã bàng bạc như là dĩ vãng xa gần. Em út Quỳnh Dao của chị không bày tỏ được gì thật trọn vẹn như ý trong huyễn thoại T.T.Kh. hậu chiến, cảm thấy đáng trách quá.

    Riêng nhà văn tiền chiến Thanh Châu thì mãi tới năm 2007 mới mãn phần ở Sài Gòn, nơi nổ ra ảo ảnh T.T.Kh. mà thơ Hai sắc hoa ti gôn lại được viết sau truyện ngắn Hoa ti gôn, sao nhà văn không lên tiếng, sau đúng một giáp cuốn sách T.T.Kh. là ai kia chất ngổn ngang khắp đường phố ông mới ra đi vậy!

    Ý tôi muốn nói rằng ở một tỉnh nhỏ như Thanh Hóa có chuyện gì mà không trong nhà chưa tỏ, ngoài ngỏ đã thông. T.T.Kh. chẳng những làm một bài Hai sắc hoa ti gôn, còn có thêm vài bài nữa như Bài thơ thứ nhất, Bài thơ đan áo, v.v., với người dân Việt Nam ta nói chung, ba bảy hai mươi mốt ngày, chuyện đời dẫu bí mật vẫn có thể lan ra một cách không kìm lại được.

    Phu quân T.T.Kh. họa may là một ông Tây mới bỡ ngỡ trước văn chương giấu giếm tình ái của vợ, chứ là một vị quan quyền Việt Nam thì ôi thôi, chỉ cần hắt hơi một cái ổng cũng tìm ra ngay cái điều ấp ủ nêu trên.

    Thành cuối cùng, tôi vẫn suy diễn dù chủ quan, nhà văn Thanh Châu tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn biết được ít nhiều về T.T.Kh., mới quá cố có 8 năm nay (2007) tại sao hai tác giả viết T.T.Kh. là ai? không tìm đến cụ văn sĩ này mà hỏi thăm, chắc cũng có điều bổ ích lắm.

    Còn T.T.Kh. hậu chiến của tôi thì đang sống trong nỗi nhớ quê hương, người thân kẻ thích xa mờ, bàng bạc, mơ hồ, vì nữ sĩ Vân Nương đã 95 tuổi.

    Hawthorne, 28 – 1 – 2015
    CAO MỴ NHÂN

    Bí Kíp Thực Hư

    Cao Mỵ Nhân

    Không phải cứ nhốt mình trong một căn phòng bốn bề tường dày như lô cốt, ăn uống trong đó rồi ngó tường chăm chăm thì gọi là diện bích đâu.

    Quả tình lúc đầu thì tôi tưởng thế đấy. Diện bích thì phải đối diện vách tường, cao hay thấp thì tuỳ, rồi cứ thế ngó tường suy nghĩ này kia.

    Từ xưa rồi, khi lớn lên, tôi đã chẳng rung cảm những pho truyện chưởng Tàu, đan cử như những kho kinh điển truyện hư cấu như Tiếu ngạo giang hồ hay thích nói mau là Lệnh Hồ Xung của nhà văn lớn Kim Dung chẳng hạn.

    Chỉ cần học thuộc tên một vài nhân vật tên tuổi trong bộ chưởng ấy là đã có vẻ hiểu biết Hán lắm rồi.

    Song tôi dở đến nỗi như kiểu diện bích không biết cả thế nào là quân tử Tàu trời ạ.

    Cho đến năm đầu 80 của thế kỷ trước, bạn tôi tên Kim Oanh tới nhà để chở tôi bằng xe đạp qua bên nhà mẹ chồng tôi nhận một chút quà từ Mỹ gởi về cứu… đói.

    Thông qua cái fax gì đó, tôi phải nhận quà qua mẹ chồng tôi do ông xã gởi về.

    Oanh biết tôi khí khái, chở tôi tới tận nơi nhận tiền, dọc đường còn dặn dò: Chồng cho bao nhiêu thì cứ nhận, chứ không phải quân tử Tàu đâu mà thiệt thòi đó nghe.

    Tôi biết Oanh dặn dò là có ý tốt cho mình, nhưng vẫn hỏi bạn: Oanh nói quân tử Tàu là thế nào?

    Trời, quân tử Tàu mà không biết à? Là những ông cứ giả bộ tốt lắm, ai cũng lầm, thực chất thì không ngay thẳng tí nào… gạt gẫm, phỉnh phờ đó mà.

    Ôi thế mà lâu nay mình cứ tưởng quý vị ấy là những bậc chính nhân quân tử, giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha, cứu nhân, độ thế chứ?

    Oanh cười: Mỵ không đọc Tiếu ngạo giang hồ à? Trong truyện có ông tên Nhạc Bất Quần là một nguỵ quân tử, giả bộ người quân tử thôi. Về tìm Tiếu ngạo giang hồ coi đi cho biết.

    Thế là tôi biết quân tử Tàu không thật sự quân tử, nói cho văn vẻ là nguỵ quân tử vậy.

    Nhưng tại sao phải làm thế? Không thật trong cái cách đối xử nó có vẻ gì kịch tính, xa vời, bí ẩn với chung quanh v.v..

    Song tha nhân gặp họ, quân tử Tàu, nguỵ quân tử lại có cái vẻ giữ chút ân nghĩa ở đời, cũng có chút nể nang. Đôi khi đã hiểu nguỵ quân tử rồi thì cũng sẵn sàng chia sẻ quyền lợi tinh thần, vật chất chung…

    Chính vì tư tưởng chính khí bốn bề là nhà nên ít người nhẹ dạ như tôi hay thần thánh hoá các đấng quân tử Tàu mỗi lần vô tình hạnh ngộ quý đấng Nhưng cũng may phước đức ông bà tôi chưa đến nỗi cuồng tín máy móc để phải nản lòng hết thuốc chữa sau này.

    Thế nhưng ở xã hội người Hoa nói cho văn vẻ, để xoá đi hình ảnh người quân tử Tàu không mấy đẹp, tôi nghĩ điều đó cũng chỉ là một trong có thể nhiều hơn đặc tính của dân tộc luôn có sẵn hai mặt giả chân, hư thực ở đời.

    Dân ta và có lẽ cả các dân tộc khác trên thế giới đều biết ở lãnh vực nào, phương diện nào, người Tàu cũng có mặt phải, mặt trái của sự việc.

    Thí dụ máy móc thật (tương đối thôi) thì lập tức có máy móc giả (tuyệt đối như hàng mã).

    Cứ phương châm chân giả xen kẽ ở đời mà sống cho hết tháng, hết năm.

    Người Hoa bất kể theo chủ nghĩa nào vẫn duy trì hư thực như một học thuyết mà có tốn công tốn của đến mấy, thảo luận, trách cứ, v.v. họ vẫn không thay đổi quan niệm chính tà của mình.

    Đôi khi tôi thấy cái chính thống của họ hay, mà cái tà thuật của họ cũng tinh xảo không kém.

    Muốn chứng minh thì cũng chẳng cần phải tìm tòi đâu xa.

    Lại đưa chưởng ra làm ví dụ.

    Thí dụ làm sao có thể vận dụng công lực, khí thế để di chuyển con người lẫn cảnh vật trước đám đông, như làm xiếc?

    Tuy nhiên đó cũng mới kể là nghệ thuật ảo.

    Còn thực tế thì cũng hàng trăm đồ dùng, vật dụng giả ngó thấy ngay từ khi cầm trong tay, cũng đành chỉ ngó, tiếc hùi hụi là mình đã lầm coi xét, ham rẻ, v.v. chứ kẻ bán hàng giả đó có đoan chắc với mình là đồ tốt đâu.

    Hôm xưa bà bạn tôi tới phi trường X. thấy ai cũng mua đôi dép rất đẹp, xinh xắn, có 2 đồng USD một đôi, có miếng giấy in nhỏ xí Made in China, nào họ có gian dối gì cho cam.

    Bà bạn tôi mua ngay năm đôi năm màu. Tính là hễ mặc y phục color gì thì xài đôi dép sắc đó.

    Song hỡi ơi, bà kể cho tôi nghe là xỏ chân vào đi một chập, chưa tới cửa tiệm thịt quay ở khu chợ Phước Lộc Thọ quai dép đã rời ra, ông bán thịt quay cười giơ dao chặt thịt quay lên nói:

    Dép đó chỉ mang cho lẹp (đẹp) đứng trên sân khấu chút thôi, không phải dép thể thao đâu mà…

    Đất nước Trung Hoa xưa với có lẽ hàng vạn năm xưa rích tự ghép rồi tự rã… cứ thế liên miên. Danh xưng đệ nhất anh hùng, toàn thắng, bất bại, vô song gì đó cũng là một cách lý giải tâm tư hỗn loạn thực hư, chân giả của họ. Điều họ không muốn phục thiện làm tốt, có lẽ sợ rằng khi tốt quá, tốt hết thì còn gì chân lý để so sánh nữa.

    Do đó họ yên tâm sắm vai trò của họ cho thật xuất sắc, trong phạm vi nào cũng muốn làm thiên hạ đệ nhất.

    Thành thử vai trò quân tử Tàu cũng không đến nỗi làm vướng bận ai nếu tôi có lỡ lời… giới thiệu giáo sư X., đại học sĩ Y. ở khuôn viên nào đó là quân tử Tàu chắc cũng bình thường như thiên hạ ở bốn phương trời thôi. Không có ý xấu. Chỉ là quen mắt, quen tai lâu rồi, về cái tật cố hữu chân giả, thực hư miên man nơi xã hội mà người Trung quốc chiếm 1/4 sắp lên 1/3 dân số trên thế giới quý vị ạ.

    CAO MỴ NHÂN

    CHÙM THƠ NHỮNG NỤ HÔN

    Cao Mỵ Nhân

    NỤ HÔN VỘI.     CAO MỴ NHÂN 

    Chúng mình mở khẩu trang 

    Hôn nhau rồi đậy lại

    Hơi thở trong không gian

    Bỗng đậm mùi quan tái

    *

    Chợt một tiếng ho khan

    Rồi cơn ho rũ rượi 

    Em ôm ngực than van

    Yêu không còn đắm đuối

    *

    Vốn đam mê miên man

    Em hỏi thầm anh hỡi 

    Đại dịch bao giờ tan 

    Khăn che mồm buồn tủi 

    *

    Em không thấy mặt anh

    Để thì thầm tiếng nói

    Anh không thấy mặt em

    Để nồng nàn hôn vội 

    *

    Quà sinh nhật năm nay

    Không hồng vàng, táo đỏ 

    Trái tim sẽ ngủ say 

    Trong cảm hàn buồn nhớ …

    *

       CAO MỴ NHÂN 

    *

    NỤ HÔN THẦM LÉN.   CAO MỴ NHÂN

    Sao anh phải thắp sáng

    Nụ hôn lúc bình minh

    Nồng nàn như ánh nắng 

    Mời cuộc tình hồi sinh

    *

    Em đợi trời thơ ấm

    Để viết lời thương yêu

    Bằng mầu son môi thắm 

    Trước khi tuổi xuân chiều

    *

    Anh nhìn em ái ngại 

    Chắp thêm cánh mộng bay

    Vượt đường trường quan tái

     Cho mơ ước, đắm say

    *

    Tình mình ôi trọn vẹn

    Người tình ôi thiết tha

    Nụ hôn ôi thầm lén 

    Đã chia cách chúng ta…

    *

       CAO MỴ NHÂN

    NỤ HÔN TAN.   CAO MỴ NHÂN 

    Sáng nay, một nụ hôn suông

    Từ nơi xa thẳm gió sương thoáng về

    Em ngồi đón nhận đam mê 

    Nhủ thầm anh hỡi môi tê tái buồn

    *

    Vẫn là chuyện một nụ hôn

    Anh mang đi mãi, khiến hồn em vơi

    Nhìn sương gió mong manh rơi

    Như anh còn dấu nửa vời tình theo

    *

    Sáng nay vương vấn mỗi điều 

    Là sao em mãi thương yêu một người 

    Nụ hôn lâu tưởng phai rồi 

    Nào ngờ nó bỗng bồi hồi trong mơ

    *

    Niềm vui thả lỏng ngày xưa

    Hôm nay có chút nắng mưa hoang tàn 

    Đưa tay sờ nụ hôn tan 

    Thẫn thờ năm tháng đá vàng hắt hiu…

    *

       CAO MỴ NHÂN 

    *

    NỤ HÔN BỆNH.    CAO MỴ NHÂN 

    Anh tiếc gì nụ hôn

    Khi em vô bịnh viện

    Ánh mắt nhìn van lơn

    Tình yêu không giấu giếm

    *

    Cả một trời vi trùng

    Từng bụi hoa, luống cỏ

    Anh mỉm cười ngại ngùng

    Ngó em sầu lỡ dở

    *

    Anh tới đây làm chi

    Cuộc tình trôi lãng đãng

    Theo lòng dạ từ bi

    Xót xa buồn quá vãng

    *

    Nụ hôn cho người tình

    Giữa cơn đau thức giấc 

    Trái tim em bất bình

    Trào dâng tràn nước mắt…

    *

        CAO MỴ NHÂN 

    NỤ HÔN GIÓ.   CAO MỴ NHÂN

    Anh biết em yêu

    Nên anh nuông chiều 

    Mỗi ngày em viết 

    Thơ đăng rất đều

    *

    Giữa cõi người ta

    Đôi khi lơ là 

    Tơ vương diễm tuyệt 

    Tưởng tình ai xa

    *

    Anh dửng dưng xem

    Nào có chi thêm 

    Vẫn tình yêu cũ 

    Trốn nơi trái tim

    *

    Em khóc trong mơ

    Ô hay tình thơ

    Có chi khổ luỵ

    Tâm tư bâng quơ

    *

    Thế sao em buồn 

    Thương tiếc nụ hôn

    Nồng nàn anh gởi 

    Gió gọi hồn đơn …

    *

     CAO MỴ NHÂN 

  • Cao Mỵ Nhân,  Thơ,  Văn

    CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN – VĂN: NHƯ NỤ CƯỜI BUỒN

    NỬA ĐÊM.    CAO MỴ NHÂN

    Chỉ còn 5 phút nữa

    Là lại đúng 0 giờ

    Chắc anh không thức chứ

    Em thì …vẫn làm thơ

    *

    Những điệu vần dang dở

    Như tình anh với em

    Anh vô tư nói lỡ

    Rằng : anh muốn bình yên

    *

    Ô hay ai ào ạt

    Cũng chưa hề dạt dào

    Chỉ có em chết ngạt

    Trong tâm tư xôn xao

    *

    Em đưa tay che mắt

    Tinh tú rớt sau anh

    Cả địa cầu vỡ nát 

    Bao năm qua đoạn đành …

    Hawthorne  11 – 9 – 2022

           CAO MỴ NHÂN

    DẤU THU BẠC.  –  CAO MỴ NHÂN

    Vàng thu đã điểm mặt đường

    Từng đàn nhạn lạc trắng sương sông hồ 

    Hỏi người sắp sửa về mô

    Bên sông hiu hắt vi lô thì thầm 

    *

    Mùa thu, vâng thật ngại ngần 

    Năm này, tháng khác dấu chân phai mờ 

    Em tìm anh lẫn trong thơ 

    Thấy anh như dặn dò : ” chờ kiếp sau “

    *

    Mùa thu cuối biển, giang đầu 

    Quan san biếc khói, công hầu dở dang

    Nắng chưa vương chút điêu tàn 

    Nhạn kêu từng giọt sương tan bạc tình 

    *

    Đưa tay đỡ nhẹ ảnh hình 

    Nhủ rằng đừng vội phiêu linh tháng ngày 

    Anh không ở cạnh em đây

    Thu không thấy được đắm say của mình …

    CAO MỴ NHÂN (HNPD)

       14 – 9 – 2022

    NHAN SẮC.    CAO MỴ NHÂN 

    Sáu mươi năm vẫn còn nguyên nữ sắc

    Hay phai tàn từ thủa lá hoa rơi

    Khách tình thơ ái mộ dẫu muôn đời

    Nhân dáng ấy giờ ngọc nhan héo hắt

    *

    Như thấy cả một trời sao lịm tắt

    Dù không gian tinh tú vẫn long lanh

    Tháng năm qua thiếu vắng nét đan thanh

    Chỉ có những bụi than hồng nguội lạnh

    *

    Thần vệ nữ Thẩm Thuý Hằng phẩm hạnh

    Trên tấm gương rực rỡ nét châu tan

    Sáu mươi năm, thương xót chút hoang tàn

    Nơi miếu cổ, nỗi buồn chung thế kỷ …

       Hawthorne  10 – 9 – 2022

              CAO MỴ NHÂN

    NGƯỜI ĐI HÁI PHÙ DUNG.    CAO MỴ NHÂN 

    Có một lần như thiếu vắng mùa xuân

    Hoa phù dung sớm hồng, trưa phai trắng

    Em thử nhìn xem trời mưa hay nắng

    Chút sương mờ khói tản lẫn sương sa

    *

    Có chi đâu, ôi buồn bã quanh nhà

    Vườn cũng nhuốm mầu quan san, cách trở

    Đừng ngó sắc phù dung mà hớn hở

    Khi chia đôi thành hai nửa địa cầu

    *

    Huế xa vời từ thủa hết thương nhau

    Ta giã biệt rặng phù dung tên tuổi

    Anh vẫn chan hoà thương đau, đắm đuối

    Không thú nhận mình gian dối hoá thân

    *

    Anh được gì, còn nguyên nỗi băn khoăn

    Khi phù dung đã lìa xa cựu cảm

    Đêm hôm qua, tiếng chuông rơi buồn thảm 

    Chúa, Phật nào đón nhận linh hồn anh …

    Hawthorne  11 – 9 – 2022

            CAO MỴ NHÂN 

    Nhac sĩ Vũ Thành An

    Như Nụ Cười Buồn

    Cao Mỵ Nhân

    Cuối thập niên 60 thế kỷ trước không biết có phải là thời cực thịnh của nhạc Vũ Thành An không, nhưng tôi biết nhạc sĩ Vũ Thành An đang nổi tiếng lắm.

    Nếu như ở đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn, nhạc sĩ Vũ Thành An giữ điểm 10 thì ở miền Trung đẹp tươi… của tôi, ông mới đạt 7, 8 thôi.

    Đó là tôi kể một cách bàng quan, không phải nhạc ông không đáp ứng tâm tư, tình cảm khách mộ điệu, mà miền Trung luôn luôn dựa lưng trên nỗi chết ở sát nách Trường Sơn nên những bài nhạc tác động được tinh thần lính tráng đa phần phải mang âm hưởng lính như nhạc Trần Thiện Thanh, Nhật Ngân, Duy Khánh, v.v..

    Vì thế có một kỷ niệm mà tôi vô cùng ngỡ ngàng trong chuyến công tác tới một đơn vị kia ở tiểu khu Quảng Tín.

    Phái đoàn gồm đại diện khối BĐPT và khối CTCT QĐI/QKI.

    Vị đại uý thuộc BĐPT độ gần năm chục tuổi, mang bảng tên trên áo trận chữ Thiện.

    Ông Thiện mới từ trung ương ra miền địa đầu giới tuyến, tính tình rất vui vẻ, luôn nở nụ cười với chiến hữu chung quanh.

    Phái đoàn nêu trên chia nhau nói chuyện với cử toạ là giới quân nhân trẻ trung sắp lên đường ra tiền tuyến. Tới lượt vị diễn giả phần hành BĐPT được giới thiệu là đại uý Vũ Tích Thiện, ông phải làm sao đưa nội dung chiến đấu vào bảo vệ lãnh thổ như lời Tông Tông tôi nói: Phải giữ từng tấc đất không để rơi vào tay Cộng sản.

    Sau vài lời sĩ quan Tâm lý chiến tiểu khu Quảng Tín nói sơ qua vài câu mở đầu, đại uý Vũ Tích Thiện vào đề vân vân, đoạn ông cười rất lạc quan: Anh em trẻ trung thế này, chắc là thích nhạc trẻ lắm, thế anh em có nghe nhạc Vũ Thành An không?

    Chẳng thấy ai trả lời, ông vẫn vui vẻ hỏi tiếp: Anh em có biết Vũ Thành An là ai không?

    Hội trường vẫn im lặng. Sự thực không phải là không có người biết, nhưng câu hỏi đó đặt ra để làm gì. Nó không phù hợp với không khí chiến tranh, chưa kể làm lũng đoạn hậu phương, nơi cần được ổn định để nâng cao tiềm năng chiến đấu ngoài tiền tuyến như phương châm của tổng cục CTCT.

    Do đó, đã có vài anh năng nổ cười đúng nghĩa chữ… bạt mạng, đứng lên trả lời: Vậy đại uý nói Vũ Thành An là ai? Đã thắng trận nào, hay anh dũng hy sinh từ khuya rồi?

    Sự thực còn kèm theo vài lời rất lính nữa. Đại uý Vũ Tích Thiện có vẻ… ngượng ngùng. Đại tá tham mưu phó CTCT QĐI/QKI phải lên cứu bồ nhà vì đại tá CTCT hôm đó là trưởng đoàn thăm viếng:

    Tôi xin đỡ lời đại uý Vũ Tích Thiện, ông có lòng giới thiệu với anh em người con trai của ông là nhạc sĩ Vũ Thành An thôi. Lâu nay nhạc của Vũ Thành An rất được giới trẻ như anh em hâm mộ.

    Để thư giãn không khí, đại tá tham mưu trưởng – trưởng phái đoàn pha trò: Này đại uý Thiện, ông có thuộc bài nào của công tử Vũ thì trình bày cho anh em nghe đi, phải không anh em?

    Thế là không khí vui nhộn hẳn lên.

    Sau vụ đó, đại uý Vũ Tích Thiện vẫn lạc quan, yêu đời và yêu người, vì Vũ Thành An vẫn liên tiếp có những bài không tên để đời.

    Rồi cuộc đổi đời 30 – 4 – 1975, tất cả phải đi tù cải tạo. Cuộc sống cứ vần xoay theo cái kiểu bất như ý mọi người.

    Khoảng vài năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, bỗng tôi nhớ ra câu chuyện ngày theo phái đoàn CTCT tới tiểu khu Quảng Tín khi tình cờ gặp lại đại uý Vũ Tích Thiện ở Sài Gòn.

    Vẫn nụ cười không thay đổi trên môi, đại uý Thiện nói: Này cô, Vũ Thành An nó sắp được về rồi đấy, tôi sẽ bảo nó đến thăm cô nhé.

    Tôi hỏi tại sao ông biết tin về của nhạc sĩ con trai ông? Ông trả lời: Ai trước khi về gia đình cũng được thông báo chứ.

    Chúng tôi nói chuyện trong căn nhà nhỏ giữa một ngõ hẻm ở đường Phan Đình Phùng cũ.

    Chỉ ít ngày sau, một buổi sáng, tôi nghe tiếng xe đạp két ngoài cửa nhà. Nhìn ra thấy một trung niên còn rất thanh niên, quần jean, áo sơ mi sọc nhỏ mờ, giày ba ta, dáng cao ráo nên đôi chân đẩy xe đạp thật trẻ trung, đặc biệt là nụ cười tươi tắn y như nụ cười của đại uý Vũ Tích Thiện.

    Tôi biết ngay là ông cụ Thiện vẫn có ý muốn Vũ Thành An tới thăm tôi, vì sao quý vị biết không?

    Vì chuyện xưa tích cũ thôi. Trong chuyện phái đoàn ngày nào trước 30 – 4 – 1975 ở Quảng Tín nêu trên, tôi đã binh vận được một chàng lính vốn yêu văn nghệ, thích ca hát lên trình bày một bài không tên chẳng biết số mấy của Vũ Thành An. Bài có câu quấn quít hay vấn vít… tà áo gì đó.

    Để rồi bắt đầu cho cả một chương trình phụ diễn văn nghệ bỏ túi thật hào hứng trước khi phái đoàn về lại Đà Nẵng, thủa đã xa xưa…

    Nhạc sĩ Vũ Thành An vô nhà cười nhiều hơn là nói, ai mới ra tù chẳng vậy.

    Phòng khách nhà tôi thì nhỏ nhưng trang trí khá mỹ thuật, có cái đàn piano của hai đứa con gái và cái đàn ghi ta của hai đứa con trai, để làm… của thôi chứ tụi nhỏ chơi đàn thì vẫn gọi là sơ đẳng…

    Vũ Thành An lấy cây ghi ta rồi ngồi ngay ở chiếc ghế sát ngoài cửa ra vào, lại cười rồi hỏi: Chị muốn nghe bài gì nào?

    Tôi trả lời bài nào cũng được, thế là cuộc độc tấu tây ban cầm cứ liên tục, thật là quý hiếm được chính tác giả trình bày cả lời hát cho nghe nữa.

    Tôi kể lại cho hai cô bạn độc thân đều cấp đại uý, cũng đã ra tù, cùng trung tâm với tôi nghe về nhạc sĩ Vũ Thành An. Một cô là đại uý nữ quân nhân, một cô là đại uý biên tập viên Cảnh sát Quốc gia.

    Hai cô đương nêu có rất nhiều phương tiện sinh sống, làm chủ một quán cà phê đồng thời làm chủ một quán bán đồ nhựa như xô, thau, gáo múc nước, ly uống nước, v.v. ở chợ Bình Tây.

    Hai cô ấy muốn được quen nhạc sĩ Vũ Thành An. Tôi bèn hỏi Vũ Thành An có thể dạy nhạc cho quý cô đó không.

    Nhạc sĩ Vũ Thành An cười nói: Học nhạc làm gì, tôi có thể dạy Anh văn cho các cô ấy, vì thế nào cũng xuất cảnh phải không?

    Đúng rồi, cả hai cô đó đang muốn vượt biên.

    Thế là nhạc sĩ Vũ Thành An đã tới nhà hai cô đương nêu ở quận 5 Chợ Lớn, ngôi nhà cao ráo, cửa sắt, không xa hai cửa hàng cà phê và đồ nhựa như nói trên với lương tiền là 5.000$ một tháng.

    Một ngày kia, cô T. trong hai cô tới nhà tôi cho hay: Ông Vũ Thành An đi đâu không đến dạy, để con D. (là cô thứ hai) cằn nhằn quá, chị đi tìm ông ấy đi.

    Trời, tôi ăn cái giải gì trong việc này chứ. Thầy trò thì trực tiếp tìm kiếm. Hơn nữa, T. với D. mới có xe honda dễ chạy đó đây chứ tôi đi xe đạp mệt chết. Tôi mặc hai cô học Anh Văn của nhạc sĩ Vũ Thành An.

    Thời gian sau nữa thì T. cho hay là nhạc sĩ Vũ Thành An đã được một yếu nhân mời đi vượt biên rồi. Yếu nhân ở đây là phái nữ yếu đuối, chứ không phải nhân vật quan trọng nào.

    Nay nhạc sĩ đã trở thành tu sĩ, cuộc đời ông như cánh đồng hoa nở ngàn phương, nhìn đâu cũng thấy sắc màu rực rỡ, quả là nhạc sĩ được ân sủng của Thượng đế cao vời, nụ cười xua tan bóng tối, không còn khổ lụy như lời nhạc thủa nào chất ngất buồn thương…

    CAO MỴ NHÂN

  • Cao Mỵ Nhân,  Thơ,  Văn

    CHÙM TÌNH THƠ CAO MỴ NHÂN & VĂN: CHUYỆN TỀ

    NGĂN TIM THỨ NĂM.   CAO MỴ NHÂN 

    Biết rồi anh rỗng trái tim 

    Làm sao em dám nhận chìm tình thơ

    Bốn ngăn tim đã hững hờ 

    Thì thôi đợi một ngăn chờ thứ năm

    *

    Ngăn tim chờ lạc chữ tâm 

    Trái tim kỳ dị trăm năm buồn phiền

    Đành rằng anh nói  : ” yêu em”

    Nhưng trong tim rỗng nỗi niềm thuỷ chung

    *

    Thì thôi cứ để mịt mùng

    Sóng thời gian nổi muôn trùng trái ngang

    Ngăn tim em đợi lỡ làng

    Thốt lên những nhịp bẽ bàng, van lơn

    *

    Thương nhau trách, ngó nhau hờn

    Cũng không thay đổi nguồn cơn tuyệt tình

    Xót xa tim sẽ hoá sinh…

    Năm ngăn tim, chẳng có hình em trong …

               CAO MỴ NHÂN 

    ****

    VẪN ĐẸP TRÒN THẾ KỶ.    CAO MỴ NHÂN

    Đã nhiều lần biết cuộc đời tuyệt đẹp

    Lũ chúng ta yêu trời đất ưu thời

    Chẳng bao giờ đôi vai trần nhức mỏi

    Bởi suối nguồn tâm thức tựa nguồn khơi

    *

    Dù song cửa hay chân mây rực chói

    Lũ chúng ta vẫn thả bước nhàn du

    Trên đường trường bao la sông với núi

    Đất quê hương sống mãi tới ngàn thu

    *

    Lũ chúng ta chưa làm chi lầm lỗi

    Để bâng khuâng nhân thế gọi quay về

    Tháng năm rạng rỡ mừng vui dự hội

    Từ đô thành tới làng xóm thôn quê

    *

    Tuổi xuân thắm chưa từng than hạ vội

    Thì thu phong lùa lá đỏ bên lưng

    Lũ chúng ta vẫn xem như chuyện nhỏ

    Tiếc than gì phai nhạt sắc nhan dung

    *

    Ôi cảnh đẹp dẫu đông sầu cuồng vũ

    Một mai kia tuyết nhuộm tóc hoang sơ

    Vẫn đầy tình tri kỷ muôn đời nhớ

    Lũ chúng ta tròn kiếp đẹp sau xưa …

             CAO MỴ NHÂN 

    ****

    DẤU CŨ HỒI SINH.    CAO MỴ NHÂN 

    Rồi một lúc em trở về dĩ vãng 

    Tìm anh xưa trên khao khát đường tình

    Ôi, tất cả lại hoang mê, say đắm 

    Tưởng bao lần dấu cũ vụt hồi sinh

    *

    Đường dĩ vãng chỉ toàn sông với núi

    Những con đê cách trở đã lùi xa

    Em đánh thức yêu thương đang hấp hối 

    Một lần đi chào vĩnh biệt sơn hà

    *

    Trận chiến nào thoáng hiện ra trước mặt 

    Áo bào căng nỗi nhớ sa trường buồn

    Dòng máu đỏ có điều chi phai nhạt 

    Khiến quê hương thảng thốt hẹn hò suông

    *

    Anh yêu hỡi, đạn bom dù tắc nghẹn 

    Tiếng đau thương không tắt được hận thù

    Dẫu hôm nay chiến công còn bất diệt

    Vẫn như là oan trái tới thiên thu…

    *

           Utah  26 – 8 – 2022

               CAO MỴ NHÂN 

    CHUYỆN TỀ

    Chẳng biết ai tò le với cụ Vì Dân, mà hôm nay cụ dám lái xe từ Tịch Mịch Viện Sanbernardino tới nhà tôi, tôi sợ quá, thiếu đường kêu 911, vì sợ cụ xỉu bờ lề, bởi một phần đi xa, một phần mệt quá, chưa kể tuổi già …

    Nghe tôi nhắc đến 2 chữ ” tuổi già”, cụ cáu kỉnh lắm, bèn sa sầm nét mặt hào hoa, mà rằng:

    ” Này, cô nghĩ thế nào, khi tôi còn có thể chạy xe 2 tiếng đồng hồ, để chỉ gặp cô, hỏi cho ra lẽ …”

    Tôi chận ngay suy nghĩ của cụ : ” Thì cụ 91 chứ gì, coi như 19 tuổi được chưa, cháu vì nghe ”đại huynh cụ” quang lâm tới cái khuôn viên ”xơ xác điêu tàn vì ai” này, mà ra cửa đợi đấy .

    – Cám ơn cô, chứ không phải cô chờ tôi kể cho nghe cái đoạn UNO với tôi đi bắt dơi ở Tháp Chàm à?

    UNO là ông Uno, tức Tông Tông …tôi, cụ Vì Dân là bạn chí thiết của ông Uno, nhưng chưa hề tuyên bố với ai điều này .

    Bởi vì cụ nghĩ rằng: Thủa ấu thơ, niên thiếu thì đã sang trang khuya lắm rồi …

    Tới khi thanh niên, khôn lớn thì, mỗi người mỗi cách nghĩ, xây dựng hành trình cuộc đời …

    Uno sanh năm 1923, cụ 1926 , tức ông Uno hơn cụ 3 tuổi.

    Cụ Vì Dân tuổi Dần, nhưng không muốn cho ai biết tuổi mình, theo cụ chỉ có hại, biết được tuổi nó đi thư mình, ma Hời là độc lắm, nên cụ đã tự ý quên lãng đi cái dấu huyền … thành tên Dân, chứ không phải tên Dần, con hổ đâu.

    Tới một ngày cụ bị ” lão ” tình cờ tìm ra tông tích, là cụ cầm trung đoàn, chiến thắng Gò Quao, Bộ Tổng Tham Mưu có ý mời cụ đi Tỉnh Trưởng, nhưng ngại sàm tấu, tiểu sử trong bản Tướng Mạo Công Vụ bị gạch những vạch đỏ ” rừng rực” dưới dòng quê hương bản quán : Tháp Chàm – Phan Rang.

    Thế là phải gặp Tông Tông …tôi rồi.

    Chưa nhậm chức đầu tỉnh XX, nên chưa vô dinh chính thức được, ” Giả” là ông Uno khôn lanh không tưởng, ổng đòi đi thị sát chiến trường …

    Đi như thế, với cương vị một Tông Tông của Hội Đồng Quân Nhân, của Nội Các Chiến Tranh vv…đẹp một cách anh hùng mã thượng, hỏi người lính nào không bái phục …

    Bữa cơm ngoài mặt trận, không bào ngư vi yến …mà toàn con ếch này, con rắn kia…nhưng nhậu một cách …sảng hồn, không nói hào sảng võ lâm nghe.

    Tôi nóng ruột hỏi ngay: Thế rồi cụ làm tỉnh trưởng XX à ?

    Cụ Vì Dân cười mỉm : ” Cả ông với tôi, ai dại gì nói trước, làm vậy, lính cười cho ấy chớ. Lính đây là các cấp chỉ huy trận địa, không phải liên hoan kiểu đốt lửa trại đâu nhá. ”

    Rồi ai về nhà nấy, tất nhiên ông về dinh, còn tôi về đơn vị .

    Nhưng sau đó thì giấy tờ văn thư, công văn gì đó, cứ bay tới chốn ba quân …

    Tôi, là cụ Vì Dân, về tỉnh XX, tất nhiên kiêm luôn chức Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu XX đó rồi. Cấp bậc quan 6 thì vốn đã trong tay, nay nếu có, chính là lên Tướng đấy .

    Nhưng không lên được, theo bước quân hành, thì từ tá 6, lên tướng, anh chỉ có thể đi Sư Đoàn.

    Hỏi có bao nhiêu Sư Đoàn để anh tham cứu chớ. Quả tình ở tỉnh đã là may rồi, vẫn có cấp, lại có …hoạnh tài chút đỉnh .

    Vả lại thế này, bảng dự tranh lên chuẩn tướng, các tá lớn đều thuộc lòng như cháo chảy lâu nay…

    Rằng cứ 3 năm, quân ta có một tá ” thâm niên quân vụ lên tướng, chuẩn thôi, còn đặc cách cho một vài ông, là họ quả thiên tài, xuất chúng thì không kể.

    Thế nên, trong một triệu quân của VNCH chúng ta, có tổng thấy 600 ông đại tá.

    Quý tá đương nêu gồm từ thâm niên, chờ lệnh giải ngũ, tới trẻ măng, vừa từ tá trung bình, lên tá tột đỉnh, tức là trung tá quá can trường, ăn ngủ ngoài mặt trận, ầm ầm binh mã khải hoàn ca …thì ” hy vọng đã trong tầm tay ” một sao bạc lấp lánh…

    Tất cả giới quan 6 nêu trên, đều có quyền dự tranh hay được đề bạt lên tướng.

    Hoá cho nên tôi, cụ Vì Dân, có phương danh khi thân sinh đi khai sổ bộ, là giới nam, tên Nguyễn Văn Dần, sau đã quen tên Nguyễn Vì Dân từ khi đăng đồ quân trường trực chỉ, đã hơn một lần thuyết trình …mật cho phe ta quan 6 hay rằng :

    Với 600 ông đại tá, tạm chia làm 3 phân hạng:

    200 ông sẽ già , sẽ khuất bóng vì già hơn nữa, hay giải ngũ .

    200 ông đau bịnh, hy sinh hay mất tích, không tránh được .

    200 ông còn lại, phơi phới tiến lên, hạnh ngộ nhau trên đường thăng thưởng, trong đó có dự tranh lên tướng . Tất nhiên số 600 vị tá lớn có các phần thay đổi, bổ sung tuỳ nhu cầu đơn vị .

    200 ông đại tá đủ điều kiện để lên chuẩn tướng x ( nhân với ) ước lệ 3 năm, thì 200 vị x 3 năm = 600 năm mới giải quyết xong hồ sơ thăng thưởng, hay là phải 600 năm cho một đại tá X nào đó thăng chuẩn tướng , OK hả ?

    Tôi vẫn bâng khuâng hỏi cụ Vì Dân:

    Như vậy có bạn cố tri như cụ và ông Uno mà cũng bình thường thế thôi sao ?

    Cô nói bình thường thế thôi là thế nào, tôi, cụ Vì Dân, chưa hiểu, hãy đưa một ví dụ.

    Ý cháu muốn nói là: Hoặc cụ cứ làm Tư Lệnh một Sư Đoàn, để lên tướng cho chắc, rồi hạ hồi sắp xếp .

    Hoặc ông Uno biến cụ thành một yếu nhân trong nội các, rồi điều chỉnh sau.

    Cụ Vì Dân cười phá lên: May cô là phụ nữ, chứ là nam nhi, thì với cách nghĩ vừa rồi, cô à quên, nhân vật nam như giả dụ,

    sẽ là một cố vấn dở nhất. Tôi nghĩ Uno dư biết tánh tôi, hay tôi là ai, để lão quyết định bổ nhiệm tôi…

    Tôi nói cô hay, và cũng mượn dịp này, để nói lên những suy nghĩ của tôi sau 42 năm lưu lạc xứ người, thời gian gấp 2 lần Việt Cộng chiếm từ nửa nước đến cả nước, tức từ 1954 đến 1975, chúng không chừa một kẽ hở nào cho dân chúng thở.

    Chúng đã đội mồ các thế hệ tiền nhân Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê vv… để thanh niên nam nữ miền Bắc XHCN kéo nhau vào miền nam …cướp giật chính quyền …

    Mà thôi, tôi đang chỉ muốn nói với cô về điều cô thắc mắc là ông Uno không đãi ngộ tôi, Vì Dân, như cô nghĩ, sao tôi là người trong cuộc chẳng băn khoăn gì, mà bên ngoài thì hay đặt câu hỏi lắm .

    Tôi, Cụ Vì Dân , chỉ giữ tỉnh XX có chưa đầy 2 năm, thì muốn bỏ việc luôn, từ một người cầm quân tác chiến ngày đêm, nay phải ngồi trước một bàn đầy văn thư mà cái nào cũng dở dang, ông Uno tới XX lên tinh thần tôi.

    Tôi nói với ông: ” để tôi ra mặt trận lại, tôi không thích chỗ ngồi này. ”

    Uno rất biết điều, ” giả” nói: ” Anh tưởng tôi thích làm Tông Tông thiệt à ? ”

    Có một giới người, mà quý vị ngoài đời, không bao giờ tin người ta nói thiệt mới lạ chớ.

    Nếu tôi nói tôi không thích làm Tông Tông, thì thiên hạ sẽ cho là tôi, ông Uno, nói dối, nhưng có những lúc tôi nói rất thật, rằng tôi chỉ muốn nghỉ ngơi…

    Năm cuối cùng làm tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng XX, cụ Vì Dân đã tự ủ một thùng rượu nho, uống thử thấy …say lơ, say lất…bèn chế ra được 800 chai, biếu ngay mỗi vị một chai trong buổi khánh thành đặc phẩm ” rượu nho” này.

    Rượu tinh chất thì phải say …

    Sau đó ông Uno giao cho tôi, Vì Dân, nguyên mặt bằng Phan Rang, làm thí điểm cho rừng nho xanh … chua loẹt, nhưng sau này thì nho bắt đầu ngọt rồi.

    Đó là ước mơ kinh tế hậu chiến của ông Uno.

    Ông Uno chịu trách nhiệm cả với mơ ước kinh tề của ông nữa…

    CAO MỴ NHÂN

  • Cao Mỵ Nhân,  Văn

    ĐƯỜNG VỀ MIỀN BẮC – CAO MỴ NHÂN 

    ĐƯỜNG VỀ MIỀN BẮC.     CAO MỴ NHÂN 

    Buổi sáng đọc một tin buồn do nhà văn Việt Hải chuyển lại cho toàn nhóm Nhân Ảnh Tân Văn, hay tin Bác sĩ Tôn Thất Niệm đã mãn phần . 

    Thế là quý vị trưởng thượng 90 đã lần lượt ra đi, không kể ngành nghề lao động chân tay hay trí óc, kể cả đại phu, giới chuyên chăm sóc, chữa trị cho nhân dân trăm họ, cũng vẫn không vượt lên trăm tuổi. 

    Nhưng khi đọc bảng cáo phó, tôi mới biết Bác sĩ Tôn Thất Niệm đã ” cửu thập niên “, tôi luôn luôn nghĩ ông thua tuổi nhà văn Duy Lam, Duy Lam năm nay mới 84, 2 vị có đôi chút họ hàng. 

    Bác sĩ Tôn Thất Niệm là rể quý của cụ cả trong dòng họ Nguyễn Tường, nhà văn Duy Lam là trưởng nam của cụ Nguyễn thị Thế, người thứ 5 trong 7 anh em dòng họ Nguyễn Tường, cụ bà Nguyễn thị Thế là tác giả cuốn hồi ký về bộ ba nhà văn Tự Lực Văn Đoàn : Nhất Lính ( Nguyễn Tường Tam ) Hoàng Đạo ( Nguyễn Tường Long ) . và Thạch Lam ( Nguyễn Tường Lân ). 

    Thủa sinh thời của Bác sĩ Tôn Thất Niệm, ông bà nhà văn Duy Lam, cách nay cũng khá nhiều năm hay ghé văn phòng vị đại phu chuyên trị bịnh tinh thần này . 

    Có lần anh chị Duy Lam còn nói với tôi, là tôi nên tới đó xin toa thuốc bị mất ngủ để nộp vào hồ sơ ” medical ” của tôi, trong lúc tôi thèm ngủ mắc chết . 

    Tất nhiên là tôi chỉ ngồi ngoài phòng đợi, anh chị vô khám bịnh đó, vì cả hai anh chị nhà văn Duy Lam đều có những suy nghĩ về các vấn đề xã hội, mà anh chị cảm thấy không giống … những ý tưởng cao vời, tuyệt hảo của anh chị . 

    Sau đó ít năm, cụ Bác sĩ Nguyễn Tường Bách, tức nhà văn Viễn Sơn, vị thứ bảy của dòng họ Nguyễn Tường, viết một cuốn hồi ký lịch sử là ” Trên Sông Hồng cuồn cuộn ” với già nửa thế kỷ lưu vong ở Quảng Châu Trung Cộng. 

    Cuốn hồi ký được Bác sĩ Tôn Thất Niệm cùng quý chiến hữu đảng phái Quốc Gia của dòng họ Nguyễn Tường, tổ chức ra mắt sách tại thủ đô tị nạn Bolsa. 

    Với những quen biết hàng con cháu trong nhà, tôi được mời tới dự buổi lễ ra mắt sách ” Trên Sông Hồng cuồn cuộn ” đó, để đặc biệt trình bầy bài thơ ” Giây phút chạnh lòng ” của thi sĩ Thế Lữ viết cảm đề tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam năm 1937 ở Hà Nội . 

    Tôi không ngạc nhiên về chuyện tại sao lại ngâm thơ ” Giây phút chạnh lòng ” của Thế Lữ tặng Nhất Linh, . trong buổi ra mắt sách của nhà văn Viễn Sơn Bác sĩ Nguyễn Tường Bách . 

    Lý do rất đơn giản là cụ Nguyễn Tường Bách luôn luôn  nhớ lại giai đoạn nhóm Tự Lực Văn Đòan thập niên 30, 40 thế kỷ trước ở một Hà Nội quý tộc xưa, với những hình ảnh tân tiến văn minh qua văn chương Tự Lực Văn Đoàn . 

    Bài thơ thất ngôn trường thiên dài 14 đoạn x 4 câu = 56 câu, có lẽ hôm đó cả khách nghe lần người diễn ngâm bị cuốn hút vào cái không khí dĩ vãng tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, nên quả tình không ai thấy mệt hay chán. 

    Chứ nghe thơ là chỉ lâu lắm 5 phút cho một bài vừa độ 4,5 đoạn đã …mơ màng buồn ngủ rồi. 

    Tôi đã cố gắng làm vừa ý cụ Bác sĩ nhà văn Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách, vì cụ là người thích bài thơ mang tính chất cách  mạng tiểu tư sản đó. Và phải cám ơn vị thổi sáo phụ họa ngâm thơ là một tiêu lang ẩn sĩ, không hề xuất hiện trước đám đông bao giờ, tiếng sáo gây cho thính giả niềm khắc khoải, mênh mông chi lạ. 

    Khi anh chị nhà văn Duy Lam cùng tôi ra về, Bác sĩ Tôn thất Niệm, Trưởng ban tổ chức kêu cậu con trai : 

    ” Bờm, con chụp cho cô Cao Mỵ Nhân một tấm hình đi ” 

    Và tôi biết vậy, sau này thì tràn ngập hình ảnh trong Iphone thế giới bạn bè, có lẽ bức hình đó cũng đã để quên đâu rồi, vì tôi chẳng có dịp nào tới lui văn phòng đại phu Tôn Thất Niệm đó nữa. 

    Một dịp sau đó, tôi cao hứng tổ chức buổi hội thơ kiểu thân hữu, tại tư gia vị giáo sư họ Nguyễn ở Costa Mesa. 

    Do đề nghị của nhà văn Duy Lam, tôi gọi tên hội thơ đó là 

    ” Viễn Phố “, vì Duy Lam có viết bài thơ tên ” Viễn Phố ” tặng nhà văn lão thành Võ Phiến, phương danh của phu nhân nhà văn Võ Phiến tên như hội thơ nêu trên vậy . 

    Buổi hội thơ cũng khá đông, có đủ ghế dành cho khách khứa chật ních phòng khách lớn, có đủ hệ thống âm thanh vv…

    Tôi thấy một tốp quý vị khách cao niên phong độ bước vô, quý vị chào hỏi thân tình, nể trọng lắm, thì hoá ra là quý khách ” tinh thần của hội thơ “Viễn Phố” gồm: 

    • Nhà văn Võ Phiến và phu nhân ( quý danh Viễn Phố) 
    • Giáo sư tiến sĩ Phạm Công Thiện 
    • Giáo sư nhà văn Trúc Chi 
    • Bác sĩ Tôn Thất Niệm

    Tất nhiên còn có các văn nhân thi sĩ khác nữa, nhưng xin phép để dịp viết khác, vì hôm nay tôi chỉ định viết ít dòng về vị đại phu Hoàng phái Tôn Thất Niệm, mà cũng hơn một lần, tôi có dịp diện kiến . 

    Hội thơ được tiếp tục trình bầy những bài bản thơ ca do quý khách thơ lên tự giới thiệu phần trình bầy. 

    Tôi thấy tôi có …bổn phận nhắc đến một tiết mục, mà tôi dám khẳng định là, nếu tôi không nhắc thì chính người trong cuộc cũng quên béng đi, vì nó rất bình thường trong thiên hạ thôi. 

    Đó là tôi lên micro để ca tụng một giọng ca đã bỏ quên mấy chục năm trước . 

    Vào mùa hè năm 1956, tôi được tham dự chuyến thăm viếng Đà Lạt dành cho Sinh viên Học sinh các trường thuộc đô thành Saigon Chợ Lớn do Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức. 

    Chúng tôi được lưu trú tại Trường Võ bị Liên Quân Đà Lạt . 

    Sau này đổi là Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

     Văn Nghệ của Sinh viên Học sinh có vị Sinh viên Y khoa tên Tôn Thất Niệm . 

    Trưởng Ban Tổ chức là một ca sĩ sinh viên.

    Ca sĩ sinh viên ấy trình bầy bài hát ” Đường về miền Bắc ” . 

    Một bài hát rất trữ tình trong thời điểm dân chúng miền Bắc di cư vào nam .

     Không ngờ hôm nay, là hôm hội thơ ” Viễn Phố “, lại có dịp gặp lại vị ca sĩ sinh viên đã tốt nghiệp và hành nghề bác sĩ từ quá lâu rồi . Xin được mời bác sĩ Tôn Thất Niệm lên máy vì âm. 

    Bác sĩ Tôn Thất Niệm đã đứng trước micro, ông có vẻ xúc động, là vì một bài hát đã quá xưa, được trình bầy nơi một trại hè thô sơ, mà có người còn nhớ lại, nên, đại phu nói: ”  Tôi rất cảm kích và xin lại… Đường Về Miền Bắc, với vô cùng cám ơn cùng khích lệ ” . 

    Lần thứ hai tôi nghe Bác sĩ Tôn Thất Niệm hát bài ” Đường Về Miền Bắc ” mà lúc nào tôi cũng chỉ nhớ cái tên bài hát, còn không biết tận tường bài đó mô tả những gì, chắc phải hay lắm mới tác động được một vị đại phu thuộc nằm lòng bài ca ấy chứ . 

    Thế rồi, nếu bạn bè thân vị đại phu này, chắc biết rõ vì thế nào cũng từng nghe Bác sĩ Tôn Thất Niệm hát rồi, còn như quý vị tha nhân và tôi thì xuân thu nhị kỳ, có lẽ hiếm khi được nghe vị đại phu này hát quá. 

    Hôm nay nghe tin Bác sĩ Tôn Thất Niệm đã ra đi miền Vĩnh hằng 12/2017 , ai rồi cũng qua đời bình thản, đại phu cũng đã cửu thập niên, gia đình cháu con bình an hạnh phúc như các nhà thiên hạ là quý rồi . 

    Xin thắp một nén hương xa cầu chúc Bác sĩ bước vào miên viễn vô cùng thanh thoát . 

    Riêng ” Đường Về Miền Bắc ” thì vẫn là bài hát của Bác sĩ Tôn Thất Niệm, vì tôi không hay chưa từng nghe ca sĩ nào trình bầy bài đó lâu nay . 

            CAO MỴ NHÂN 

  • Cao Mỵ Nhân,  Văn

    VĂN: “THU VÀNG” – “VIÊN ĐẠN ĐỊNH MỆNH” – “THƠ PHÚ BUỒN TÊNH” – Cao Mỵ Nhân

     Getty Images/iStockphoto

    THU VÀNG

    Ở Hoa Kỳ, mùa thu thật khô ráo, có một chút ẩm ướt nếu sương rơi hững hờ, hay khói tỏa mơ hồ …

    Tôi đang cư ngụ ở quận Los Angeles, sát biển tây , nên chuyện khói sương từ xa khơi bay vào thành phố, cho ta một chút hắt hiu êm đềm, để bảo rằng thiên hạ đã …cộng tri thu, cùng biết mùa thu mênh mông đầy trời …

    Nhưng mùa thu đó hơi khác lạ với thu vàng VN đúng nghĩa …nhất là thu ở Hà Nội, thời còn giới trí thức tiểu tư sản .

    Hay là mùa thu chưa lấm đất bùn …lao động xã hội chủ nghĩa, một mùa thu lãng mạn của tầng lớp trung lưu, mặc dù lớp trung lưu ấy, có người cũng xơ xác không kém giới bình dân nghèo khổ .

    Nhưng mùa thu miền bắc nói chung, đã đi vào văn chương, nghệ thuật như những thiếu nữ rong chơi thủa xuân thì …

    Mùa thu ở xứ sở có đủ mầu sắc xuân hạ thu đông, thì đậm nét văn học ngay từ thực tế, chưa cần thể hiện trong những tác phẩm nghệ thuật.

    Thế nên, cho tới giờ này, sách truyện thơ nhạc vv…mô tả mùa thu ở Bắc Kỳ …vẫn không thể thiếu mây vàng, mưa bay lất phất, nắng nhàn nhạt, gió hiu hiu nhè nhẹ thôi …

    Lần đầu tiên thủa mùa thu mơ màng đó, tôi vừa học hết bậc tiểu học, mới lên đệ thất trung học, tức lớp 6 ngày nay …tôi đã xem tiểu thuyết !

    Đúng ra là 2 cuốn truyện …như tuỳ bút, hay sự thật 100% trong đời tác giả, mà thời nay gọi là truyện ký, hồi ký, thậm chí quý vị còn kêu ” ký ” ngắn gọn .

    Đó là tác phẩm Mưa Thu và Quán Gió của nhà văn Ngọc Giao ở Hà Nội vào năm 1953, trước khi tôi di cư vô Nam .

    Cả 2 cuốn truyện trên, nhà Văn Ngọc Giao đều đưa khung cảnh Mùa Thu đất Bắc vô nội dung Tác phẩm của ông.

    Vì hôm nay tôi chỉ muốn kể chuyện về mùa thu chan chứa sắc vàng ở phần đất, mà trong văn chương và ngoài cuộc đời thể hiện song hành .

    Nếu mùa thu ở các tỉnh Bắc kỳ gọi là vùng ” tề ” như Hà Nội, Hải phòng vv…thủa trước di cư năm 1954 mấy năm, trời đất mang vẻ thanh bình đô thị .

    Thì ở những vùng gọi là …kháng chiến chống Pháp, hay rừng núi, làng thôn xa xôi,những miền quê mà thủa ấy còn gọi vùng Việt Minh, mùa thu mang rất nhiều tâm sự của rất nhiều hoàn cảnh khác nhau …

    Trong Mưa Thu của nhà văn Ngọc Giao, nhân vật chính là những gã trung niên vốn ở thị thành, đi theo tiếng gọi mơ hồ về một miền rừng núi nào đó, để giải tỏa lòng mơ ước, để thực hiện hoài bão … Chưa định hình rõ rệt, kiểu Thâm Tâm viết Tống Biệt Hành .

    Nhân vật chính Mưa Thu, hoài phí thời gian suốt tuổi thanh niên qua trung niên, có gia đình rồi, có cả bầy con, mà đôi khi, ông ta không nhớ mặt cả những đứa con đang sống âm thầm với người vợ ông ở quê nhà .

    Người vợ ấy tưởng tháng năm khổ cực, vừa lo cho bố mẹ chồng, vừa lo cho con cái vv…bằng những củ khoai củ sắn, gạo hẩm, cơm thiu …cũng không biết sinh sống tối tăm thế nào hơn nữa …

    Người chồng, tức nhân vật trung niên trong Mưa Thu lang bạt kỳ hồ, đi mãi không về, lấy nhà thiên hạ là nhà mình …lang thang, lênh đênh …mong ước điều gì đó…

    Vì hễ ông ta phải bó gối ngồi nhà, thì lập tức không chịu được hoàn cảnh khốn cùng nên lại lén mở cửa lên đường vô định, bỏ lại đằng sau cặp mắt đỏ hoe của người vợ, có lẽ không bao giờ biết đến niềm vui …

    Thảng, trung niên kia có dịp hay tình cờ đi ngang làng xóm quê mình, người chồng ương ngạnh ấy, chợt thấy lòng chùng xuống, tìm cha mẹ, vợ con …để chỉ ngó, cười trừ nhìn mưa thu bay lất phất bụi trên vạt áo sông hồ bạc phếch buồn tênh…

    Cha mẹ vợ con lại dốc ống, tức là tiền để dành ra, đi mua rượu trắng, đĩa lòng heo đãi khách, chính là người con, người chồng, người cha lang bạt mới dợm về, tức chưa chắc đã về ở luôn với gia đình khốn khổ miên man đó .

    Tâm tư lênh đênh của người trung niên thời kỳ Hữu Loan, Quang Dũng bỏ thị thành đi tìm ý nghĩa sống, bị bế tắc trong học thuyết.

    Trước đó thì Thâm Tâm, Nguyễn Bính …cũng mơ màng trong hình ảnh ” người đi ” …

    Để sau này, tỉnh táo hơn, bắt kịp suy nghĩ của lớp trí thức, tiểu tư sản thế giới, sau những tan hoang của đệ nhị thế chiến ( 1939-1945 ), quý văn nghệ sĩ, trí thức VN ” chung chung ” như thi, hoạ sĩ Tạ Tỵ, nhạc sĩ Phạm Duy đã hiện diện ở bên này chiến hào ý thức hệ .

    Quý vị ” dinh tê “, tức tìm lại cho mình những gì tư hữu, mà trước đó đã theo phong trào yêu nước tự phát, lãng phí ít nhất 5 năm cho …Thiên đường không bao giờ mở cửa ở trần gian, trong đó Mưa Thu giãi bày tất cả nỗi lòng của giới trung niên đã mệt mỏi …

    Mưa Thu là vừa qua những sôi nổi nhiệt tình của mùa hạ, chỉ còn thấp thoáng ngọn lửa hắt hiu trong tư duy phá sản mịt mù .

    Mưa Thu nói riêng, mùa thu Hà Nội hay mùa thu Bắc kỳ nói chung, trong cái nghĩa mộng mơ, trữ tình , lãng mạn …chắc chắn không còn sau 1954 ấy .

    Nhưng may mắn hơn, hai mươi năm ở miền Nam tự do ( 1954 – 1975 ) quý vị và chúng tôi, có lại thứ cảm giác nhẹ nhàng, mơ màng, lãng mạn một cách chan hoà, trời đất sáng tươi, an lành, và lớp thanh niên, trung niên …miền Nam thực sự khí phách, thực sự biết được lý tưởng của mình, hân hoan nhập cuộc …

    Vì họ đã biết rõ đường đi và điểm tới …dù có mưa thu làm ướt tóc, lạnh vai người lãng tử … đi nữa .

    Tuy nhiên, gió mưa là chuyện của trời, mà buồn, vui, chung thủy, phụ bạc, lại là chuyện của người ta.

    Vừa đây, nghe ca sĩ Khánh Ly ” lên lớp ” trên sân khấu ca nhạc Hà Nội, bảo rằng cô mơ được thấy lại ” mùa thu Hà Nội”

    sau bao năm xa cách .

    Tôi nghĩ ca sĩ Khánh Ly muốn tới Hà Nội thay đổi không khí, cũng như nhu cầu đi Bắc Kinh, Bình Nhưỡng vv…và cả những nước Tự Do khác là do ” đi làm ăn xa ” thôi, chớ cái gọi là chất Hà Nội thì phải xem lại ” vấn đề” .

    Theo như, chẳng ai bảo, mà cứ khai ra, Cộng Sản có biệt tài bắt làm tự khai lắm, ca sĩ nêu trên tâm sự : cổ sanh năm 1943, tức ngày di cư 11 tuổi …

    Như vậy, tuổi đó, nếu con trai thì chơi ve sầu, con gái thì ăn sấu chín trên các vỉa hè Hà Nội là đã trữ tình lắm rồi, chuyện mộng mơ ngắm mây thu vàng trên thành phố Hà Nội, có lẽ phải quý vị như Mai Thảo, Kiều Chinh vv…thì họa may đi tìm lại, e còn có vẻ…

    Song le, cảnh thì phải đi đôi với người, ” nhân dân Hà Nội ” từ 1954 tới nay, là gần với hình ảnh mặt trời đỏ rơi trên luống cày, chứ ngắm mây thu vàng lãng đãng quanh Hồ Tây, thì phải chờ ngày ” các anh về quang phục quê hương” đã nhé . ..

    CAO MỴ NHÂN

    VIÊN ĐẠN ĐỊNH MỆNH.     CAO MỴ NHÂN 

    Cả năm nay tôi không liên lạc với nhà văn Duy Lam và phu nhân, lý do rất đơn giản là nhà văn Duy Lam thì đã quên quên nhớ nhớ mấy lâu rồi, còn bà lại thường yên trí với những sự việc suy diễn hay liên tưởng nhiều hơn thực tế. 

    Tôi không hề phiền buồn bất cứ một điều gì đối với ông bà, mà mối thân tình của chúng tôi trải suốt 58 năm cứ hoà hợp vui vẻ, thân mến  thêm. 

    Nếu kể trong số người thân quen, tôi không dám nói là bạn, vì lúc nào tôi cũng xem nhà văn Duy Lam và phu nhân ông,  như anh chị ruột thịt, vì chúng tôi có nhiều ” tình thân đơn vị ” mà đại tộc KaKi của tôi, luôn “sống chết có nhau” . 

    Đến nỗi chúng tôi thuộc cả tính nết nhau không sai một dấu phẩy, nếu phải viết ra trên giấy trắng mực đen chuỗi tháng năm thân thiết từ quá khứ tới nay. 

    Thế nhưng tôi nghe tin phu nhân nhà văn Duy Lam  mãn phần vào ngày 25 -4 – 2018 vừa qua, khiến tôi bùi ngùi tưởng nhớ dĩ vãng của anh chị và chúng tôi nơi khung trời kỷ niệm Đà Nẵng xa vời.

    Ngay khi Dịch giả Ái Cầm và Thi sĩ Thái Tú Hạp, giám đốc tuần báo Saigontimesusa tin cho hay chị Duy Lam đã mất,  tôi lại thầm trách: Tại sao tôi không phone cho anh chị mỗi tuần, để chị muốn nói chi thì nói, vì chị rất thích tâm sự cùng bạn bè khắp nơi. 

    Tôi lại ỷ y các cháu con anh chị chu đáo trong mọi hoàn cảnh lâu nay, dù sao thì cuộc sống cuối đời của gia đình nhà văn Duy Lam cũng hơn hẳn những thân hữu, chiến hữu , bằng hữu 2 lãnh vực văn chương và đảng phái của ông. 

    Có lẽ không việc gì phải ngần ngại khi tôi đề cập đến 2 sinh hoạt sau cùng nêu trên, là văn chương nghệ thuật, và lý tưởng xã hội mà nhà văn Duy Lam đã phụng sự Việt Quốc, tức Việt Nam Quốc Dân Đảng vậy. 

    Trước hết, tôi phải khẳng định nhà văn Duy Lam là …ai ? Rồi từ đó lướt qua sinh hoạt cuộc sống gia đình ông, mới nổi bật được vai trò người vợ của nhà văn tên tuổi ấy, là bà Chu Thị Thịnh, phu nhân nhà văn Duy Lam, đã giã từ cõi thế.

    Nhà văn Duy Lam tên thật là Nguyễn KIm Tuấn, trưởng thành trong binh nghiệp, ông nguyên cấp bậc Trung tá VNCH, lại hầu như chuyên trọng trách các chức vụ Chánh Văn Phòng Tư Lệnh Quân Đoàn, Sư Đoàn.

    Song ông lại được kiêm nhiệm phụ trách các vấn đề hành chánh, văn hoá, xã hội thuộc lãnh thổ Quân Đoàn I/ Quân Khu I, các đảng phái hoạt động lâu đời, mà các vị Tư Lệnh muốn chuyên chú về quân sự, để việc hậu cứ phức tạp cho Trung tá Nguyễn Kim Tuấn, tức nhà văn Duy Lam trách nhiệm . 

    Do đó vai trò của madame Thịnh Chu xuất hiện , bà hiền thê xuất sắc của nhà văn Duy Lam đã cáng đáng các thứ công việc mà bình thường phải mấy nhân viên mới làm tốt được. 

    Đi sâu vào chi tiết vị “nội tướng” của nhà văn Duy Lam, quý vị mới thấy là bà Chu Thị Thịnh thật hoàn hảo từ ngày bắt đầu cuộc sống ” Đồng chí VN Quốc Dân Đảng ” của Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn. 

    Vâng, thay vì bà  Thịnh Chu chỉ việc làm phu nhân một vị Trung tá Chánh Văn Phòng Tư Lệnh, hay làm ái thê một nhà văn danh tiếng là đã …sáng giá lắm rồi. 

    Chị lại ôm đồm công việc ngoại vi của một phụ nữ đã rất giỏi nội trợ. 

    Ngoài công việc chợ búa tảo tần, với những bữa ăn gia đình ấm cúng, chị còn đảm đương luôn những bữa tiệc lớn mà nhà văn Duy Lam phải trụ trì các buổi họp VNQDĐ cấp cao, hay địa phương, thường tổ chức ngay tại biệt thự ” tư thất ” nơi cư xá Bác Ái, vốn thuộc Bộ Chỉ huy 1 Tiếp vận ( Quân Khu 1 ) Đà Nẵng . 

    Phần việc này, tôi chỉ xin trích ngang, vì thường kỳ tôi không theo dõi, bởi không phải công việc của tôi.

    Nhưng mỗi năm vào mùng 2 Tết Nguyên Đán, nhà văn Duy Lam tổ chức buổi tiếp tân lớn tại tư thất ông bà nêu trên, bằng tất cả những món mặn ngọt mà đều do chính tay bà thực hiện .

    Thí dụ : nấu bánh chưng, bánh tét, tất cả các thứ bánh ta, tây, mứt món, thực đơn chính thức cỗ bàn, và nhất là không thể thiếu các thứ rượu khai vị ta tây như nếp cẩm, nho, mận, vv…

    Thức ăn , thức uống như nêu trên, phu nhân nhà văn Duy Lam đã một tay thầm lặng dành dụm, tích lại từ cả tháng trước đó. Nên chỉ nhìn vào thực chất buổi tiếp tân thịnh soạn là thấy thiện chí của người vợ ” đồng chí ” VNQDĐ ngay rồi.

    Như thế, quý vị cũng thấy được lòng yêu thương, tính tháo vát, đức hạnh của một phụ nữ VN tiêu biểu cho nền nếp xã hội vừa phong kiến vừa tân tiến của phu nhân nhà văn Duy Lam.

    Một nét đặc thù của những thành viên xuất xứ từ cái nôi dòng dõi Tự Lực Văn Đoàn, mà chị là dâu trưởng của cụ bà nhà văn Nguyễn Thị Thế, người phụ nữ duy nhất trong dòng văn học cách mạng trí thức tiểu tư sản thập niên 30, 40 thế kỷ trước ở Hanoi, gồm quý ông Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam  là những người bác, cậu của nhà văn Duy Lam vậy. 

    Với một tiểu sử khá ly kỳ, trong phạm vi bài này, tôi không đề cập tới các mặt văn chương hay xã hội của Tự Lực Văn Đoàn, mà Duy Lam là người cháu chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ quý ông đương nêu.

    Để có thể …nhắm mắt hiểu rằng: nhà văn Duy Lam với thêm vào một số dữ kiện, đồng thời là một vị quan 5 VNCH, cá nhân Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn đủ để thu hút phần nào quý vị nữ lưu giai nhân thủa ấy. 

    Nên không thể không ca tụng phu nhân trung tá nhà văn Duy Lam , vốn là một nữ lưu sáng giá cả về nhan sắc lẫn phẩm hạnh. 

    Tư tưởng ” Tự Lực Văn Đoàn ” cũng thấm ít nhiều trong tính độc lập của phu nhân nhà văn Duy Lam, nên chi trong cuộc đổi đời bất hạnh của miền nam VN, trung tá VNCH Nguyễn Kim Tuấn cũng bị đi tù cải tạo như các quân cán chính chế độ cũ. 

    Phu nhân nhà văn Duy Lam đưa 3 con gái dưới 15 tuổi về Đà Lạt tá túc với bà nội, tức cụ bà Nguyễn Thị Thế, rồi chị bị bắt đi Kinh tế mới ở Lâm Đồng .

    Tại đây đã có sự tranh chấp giữa bà và bạo quyền Cộng sản địa phương. 

    Bà đã nói thẳng vào mặt bọn cán bộ quản lý việc đưa dân đi khắc phục ma thiêng quỷ khốc rằng: 

    ” Ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nói một câu mà hồi đó thì chúng tôi không tin, nhưng nay, hoàn toàn đúng: Đừng nghe những gì cộng sản nói , mà hãy nhìn những gì cộng sản làm ” . 

    Tất nhiên chị bị hành hung vì chúng bắt chị cải chính câu nói trên, nhưng chị đã không cải chính mà còn nhắc lại 3 lần câu vừa nêu, dù chúng giao hẹn một cách thổ phỉ tàn ác là không theo lệnh chúng, chúng sẽ dùng vũ lực kết thúc . 

    Chị Thịnh Chu đã đi tù cải tạo lâu hơn tôi, một thiếu tá QLVNCH. Tôi đang vội vàng vô Bưu Điện Bình Thạnh, thì nghe tiếng gọi : ” Mỵ Nhân, Mỵ Nhân” . 

    Tôi quay nhìn lại, té ra phu nhân nhà văn Duy Lam. Mặc dầu chị đang trong bộ quần áo đen bạc phếch, chiếc nón lá mà tôi không thể nào quên, nón cũ rách đã đành, nhưng quai nón đã nối tới 3 đoạn dây vải cũ xấu xí, thế mà ngó chị vẫn trẻ đẹp như hồi còn ở Đà Nẵng trước 30 -4 -1975. 

    Vị phu nhân sang trọng quý tộc này đã từng có tới mấy tủ quần áo toàn đồ đầm, sang trọng,  chị chỉ may vài áo dài để mặc khi lễ lạc cần thiết .

    Ngay tức khắc lúc tái ngộ đó, tôi nhớ tới viên đạn chị tự bắn vô đầu năm 1968, tôi ứa nước mắt hỏi thăm chị : 

    ” Chị ơi, chị có khoẻ không ? ” . 

    Lập tức tôi nối lại ” bang giao ” những ngày xưa thân ái dưới chế độ VNCH ở miền nam . 

    Và tức tốc đưa chị đến Câu Lạc Bộ Dưỡng Sinh học để kịp thời điều trị những u uất tinh thần, cùng những khó khăn vật chất, trong thời gian nhà văn Duy Lam đã từ nơi khác chuyển về trại tù Hàm Tân . 

    Thế là chúng tôi vui vẻ dắt dìu nhau, chúng tôi đã luôn luôn thông báo cho nhau những tin tức mới nhất thủa hậu tù cải tạo ấy. Kể cả việc chị tự tìm cách liên lạc với Văn Bút Quốc Tế để thông báo chuyện tù đày của nhà văn Duy Lam. 

    Những năm sau đó, chúng tôi vẫn cùng nhau đi thăm viếng bạn cũ thuộc Bộ Tư Lệnh QĐI/ QKI. Cho tới khi Trung tá Nguyễn Kim Tuấn ra trại trong dịp gọi là Tổng trở về đợt I, tức 2-9-1987. 

    Và sau nữa là chuần bị ra đi trong chương trình tị nạn HO, nhà văn Duy Lam tới Mỹ vào đầu thập niên 90 thế kỷ trước cùng phu nhân và 2 con gái chưa lập gia đình. Cô bé đầu được ông bà bảo lãnh, cũng đã sang Hoa Kỳ sau này. 

    Có một điều là tất cả mọi chi tiết sinh hoạt trong gia đình nhà văn Duy Lam, chỉ một tay chị Thịnh Chu làm . 

    Thế nên các thứ như lập hồ sơ ra đi tái định cư, rồi tới Mỹ, các thứ hồ sơ xin trợ cấp để hội nhập Hoa Kỳ, xin thi vô quốc tịch Mỹ vv…đều do chị làm, chị cũng vô quốc tịch trước anh, hầu bảo lãnh cho gia đình Phương Lan . 

    Làm chủ tình hình như thế, phải có một nghị lực bền bỉ, và một tình yêu … khủng khiếp lắm, mới vượt qua được những khó khăn cùng những cay đắng mùi đời nếu có.

    Phu nhân nhà văn trung tá Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn là một minh chứng cho điều đó, yêu nhà văn và lo lắng cũng như nghi ngại tình yêu bị chia sẻ, đã khiến bà phải lấy súng của chồng để bắn vô đầu, trong một giây mất bình tĩnh nhất. 

    Bà không biết là anh em nhà văn Duy Lam, Thế Uyên đã chẳng hề có một hình ảnh nào chấp chới trong đầu óc các ông. 

    Duy Lam đã phải đưa phu nhân vô cấp cứu ở Tổng y viện Duy Tân, các bác sĩ khu giải phẫu, kể cả các bác sĩ Mỹ thời đó đều  ngưng tay, vì sao ? 

    Vì đầu đạn đã ép sát vào giây thần kinh chi đó, khiến cuộc giải phẫu phải đặt lên một bàn cân suy nghĩ thế nào. 

    Cuối cùng thì bà phải trở về với trạng thái nguyên vẹn nhưng không hề nguyên vẹn bình yên, vì đầu đạn vẫn cận kề giây thần kinh tối trọng đó. 

    Đầu đạn định mệnh đã ở cùng chị Chu Thị Thịnh đúng 50 năm.

    Nửa thế kỷ với nỗi ưu tư thảm khốc về một tình yêu to lớn, rồi nay, cuối đời bà, nỗi ưu tư vẫn ám ảnh vì đầu đạn lỳ lợm ở lại vĩnh viễn với chị, nó, miểng đạn sẽ theo chị đi mãi về hư vô …

    Hiện diện ở thế gian 85 năm. 

    Như vậy dấu đạn thù đã hăm doạ chị từ năm chị mới 35 tuổi đầy xuân sắc. 

    Nay chị về cõi khác, như tính tháo vát xưa, có lẽ chị về nơi ấy, để sửa soạn cho ngày nào anh, nhà văn Duy Lam, sẽ gặp lại hiền thê, người đã sướng và khổ vì yêu anh đến chết … 

                 CAO MỴ NHÂN

    THƠ PHÚ BUỒN TÊNH.    CAO MỴ NHÂN

    Qua một “tai hoạ về Thơ” nho nhỏ của Nhà Thơ Phương Hoa, người nữ tài hoa, khiêm tốn nhứt nơi các diễn đàn xướng hoạ “Đường Thi” mà Cao Mỵ Nhân tôi cảm thấy nên viết ra cái điều lạ lùng của người làm thơ nửa nghịch ngợm, nửa khôi hài, ganh ghét khả năng riêng, của mỗi tác giả, đã sửa thơ để … phiền lòng bút mực.

    Số là Cao Mỵ Nhân được đọc một bài thơ gọi là xướng tên

    “Chờ Người Gỡ Rối” của Phương Hoa, do Nhà Thơ Hồ Nguyễn đã hoạ và chuyển lên diễn đàn (chưa hình thành hệ thống xướng hoạ),  bèn hỏi Phương Hoa có phải bài đó của Phương Hoa không, để Cao Mỵ Nhân hoạ.

    Phương Hoa nói “Phải, nhưng không biết chắc là bài xướng hay bài họa, nhưng thấy câu kết sai luật bằng trắc nên phải sửa lại, do ông Hồ Nguyễn phát hiện và đề nghị.

    Tất nhiên CMN cũng tiếp hoạ gởi Nhà Thơ Hồ Nguyễn.

    Nỗi băn khoăn của Phương Hoa, một trong số người làm thơ am tường về các thể loại “Đường luật xưa và nay” như quý vị quen tay viết: Lý Đức Quỳnh, Cao Bồi Già, Thy Lệ Trang, Sông Thu, Như Thu, Minh Thuý …vv… và nhất là Phương Hoa, thì thường thận trọng trong cung cách xướng hoạ, lẽ nào sơ ý đến nỗi luật bằng trắc (sơ bộ nhất) lại bị đảo ngược chứ. Nếu có sơ sót cũng sẽ sớm “phát hiện” ra hoặc bạn bè nhắc nhở giùm, đâu đến nỗi từ năm …lâu lắc đến nay mới thấy.

    Tất nhiên băn khoăn thì phải tìm cho ra lẽ, Phương Hoa đã kiếm ra “Chờ Người Gỡ Rối” của Phương Hoa là bài hoạ từ bài thơ xướng “Biết Tìm Đâu”của Thi Sĩ Lý Đức Quỳnh từ năm 2020, và bài họa đó không hề sai luật như bài người ta gửi lại:

    BIẾT TÌM ĐÂU?!

       (Thơ đề ảnh)

    Mãi những rối ren ập xuống đầu

    An bình cuộc sống biết tìm đâu?!

    Đường mây thẳm lộng trời giăng lưới

    Bến cảng hoang vu biển đợi tàu

    Xót kiếp tằm côi đào huyệt lạnh

    Thương đời cỏ dại nhốt hồn đau

    Ngày như ngọn gió chờ giông nổi

    Bạc trắng đôi bờ sóng đuổi nhau!

    Lý Đức Quỳnh

       27/8/2020

    Thơ Họa:

    CHỜ NGƯỜI GỠ RỐI

    Sợi dọc sợi ngang tréo phủ đầu

    Người ơi, biết phải gỡ từ đâu?

    Đợi trang trí dũng xoay nguồn rối

    Chờ bậc mưu cao chuyển mũi tàu

    Tiếng quốc gọi đàn tim nhức nhối

    Lời chim khóc tổ dạ quằn đau

    Đêm đêm nuốt nghẹn sầu nhung nhớ

    Mong đến ngày về được gặp nhau

     Phương Hoa

    Aug 27th 2020

    Vậy là như nhật nguyệt giữa trời, đã có vị nào đó muốn đưa Phương Hoa ghé thăm … hạ tầng cơ sở, để coi thử Phương Hoa cười hay mếu?

    Song, như trên tôi đã thưa rồi, với khả năng thiên phú, kiểu thủa xưa bên …Tàu, thiên hạ nói bảy bước hay ba bước nghĩ được một bài thơ, thì ố la la … những người làm thơ chuyên tay, xem như chuyện … nhỏ.

    Bây giờ Phương Hoa đính chính rồi.

    Phương Hoa thông báo quý thi nhân “bớ lai tỉnh” đừng hoạ bài “Chờ Người Gỡ Rối” của Phương Hoa nữa, vì đó là bài hoạ, cũng có nghĩa, vị nào cao hứng thì kiếm bài “Biết Tìm Đâu” của Lý Đức Quỳnh, rồi hoạ tiếp, cho lâm viên Lãng Phong xum xuê lá cành, chứ “họa bài họa” là không đúng lẽ của làng xướng họa.

    Tuy nhiên, Cao Mỵ Nhân cũng hùi hụi tiếc là mới hoạ thêm bài: “Người Về Gỡ Tóc”, vì chắc cũng đã có bài hoạ nơi bài: “Biết Tìm Đâu” của Lý Đức Quỳnh trước đây rồi, là bài “Trong Nỗi Buồn Kia”

    TRONG NỖI BUỒN KIA

    Dẫu khổ bao nhiêu, vẫn ngửng đầu

    Bởi vì chân lý ở nơi đâu

    Tóc mây đang chải xanh bờ nước

    Làn khói bay lên trắng bóng tàu

    Tơ nhện vẫn còn vương áo bạc

    Tình đời e chửa hết niềm đau

    Trốn chi cho khỏi sầu vong quốc

    Tiếng gọi đăng trình, tiễn biệt nhau…

        Hawthorne  28 -8 – 2020

    CAO MỴ NHÂN

    Bài họa mới đây:

    NGƯỜI VỀ GỠ TÓC.

     Lược nào gỡ được rối trên đầu

     Như mối tơ vò cuốn tại đâu

     Từng sợi thơm hương đang xoắn tít

     Bao điều khổ hận đổ nghiêng tào

     Bàn tay êm ái bờ vai tủi

     Cặp mắt chan hoà sóng lệ đau

     Như chỉ luồn kim cần vuốt nhẹ

    Tóc thề buông thả đẹp lòng nhau…

         Hawthorne  30 – 7 – 2022

                CAO MỴ NHÂN

    Chu choa, thi trường xướng hoạ cũng nhiều thâm cung bí sử, Cao Mỵ Nhân sẽ trình bày một bài thơ “xướng” của một thi hào thời đại gồm 8 câu, mà hết 4 câu thật hay, lại tạm mượn của nữ sĩ Hoa Thu (hiền tỷ của Thi Sĩ Ngân Sơn) mới là hi hữu.

    Vì thế cho nên, chiếu thơ xưa chỉ hạn chế trong chiếc chiếu hoa, 4 vị ngồi ngâm nga thông cảm ngôn ngữ thơ của mình, có nghĩa bạn thơ phải cùng khuynh hướng, cách nhìn, “quan điểm thơ,” chớ không đại trà, để tắc trách, khó chịu và nhất là chẳng thấy “yêu thơ” đâu, chỉ mông lung “ghét thi sĩ” mới lạ.

    Bàn ra tán vào một chút phong hoa tuyết nguyệt, để quý Nhà Thơ mỉm cười trước lối chơi thơ lạ lùng bí hiểm.

    Thân chúc lâm nguyên thơ bạt ngàn tình ý tao nhã, thanh cao. Kính chúc tất cả vạn an, vạn phước. 

            UTAH cuối tháng bảy 2022

                     CAO MỴ NHÂN

  • Lê Tuấn,  Văn

    Người Đàn Bà Chết Trong Khu Chung Cư Người Già

    Tế Luân

                 Đã bao lần vợ chồng tôi dự định đến thăm gia đình anh chị Phạm Hải, anh chi cho biết là mới dọn về nhà mới, trong khu chung cư thuộc sở nhà đất, tọa lạc ngay trung tâm thành phố San Jose, khu chung cư này dành cho người già và người có lợi tức thấp  “Apartment for senior”.

                 Một địa điểm rất đẹp, tọa lạc tại trung tâm thành phố San Jose, gần những khu  mua sắm (shopping), chợ và nhà hàng.  Anh chị Phạm Hải rất vui mừng và gọi phone mời vợ chồng tôi đến thăm nơi ở mới.

                 Trước đây anh Phạm Hải thường tâm sự với tôi, anh nói:

                -Khổ lắm anh ạ, vợ chồng tôi mới từ Việt Nam sang định cư theo diện con bảo lãnh, không có quyền lợi gì cả, tiền thuê nhà ở thành phố San Jose này thì quá đắt đỏ, gia đình cô con gái phải thuê một căn nhà 3 phòng ngủ mỗi tháng $3,500 đô la, chưa kể tiền linh tinh như điện nước và rác, cộng chung tất cả cũng phải mất đến $4,000 đô la mỗi tháng, lấy đâu ra bằng ấy tiền, thế là nó cứ ăn thủng mãi vào ngân quỹ gia đình.

                 Mãi sau này nhờ người chỉ dẫn, mình nộp đơn xin vào khu chung cư dành cho người già, chờ đợi mấy năm qua không ngờ lại được nhận vào đây ở, cũng như người may mắn trúng số. Rất nhiều người muốn xin vào mà không được.

                Từ khi qua Mỹ chúng tôi mới nhận ra người Mỹ họ tốt quá, nhiều thứ ưu tiên dành cho người già. Việc đầu tiên là xin được cái thẻ medical (bảo hiểm y tế) nhờ thế mà bớt được tiền thuốc men và tiền khám bệnh.

               -Anh Phạm Hải nói tiếp: Cái thân già của tôi bị đủ thứ bệnh, nào là cao máu, cao mỡ, tiểu đường nhưng khổ nhất là bệnh thấp khớp, hai mắt cá chân của tôi nó cứ sưng lên rồi đến đầu gối cũng bị sưng, tôi phải đi bằng hai cái nạng gỗ.

               -Anh Phạm Hải lại pha trò, nhờ hai cái nạng gỗ chống đỡ, nên đôi chân của tôi nó dài đến nách anh ạ, vừa nói anh vừa cười ha hả.

                Anh Phạm Hải rất vui tính, anh là một nghệ sĩ, một diễn viên của đoàn kịch nói Hồng Hà. Uỷ ban phát thanh và truyền hình Việt Nam. Sau này tách ra làm hai uỷ ban, Truyền Thanh và Truyền Hình Việt Nam.

                Phạm Hải là một nghệ sĩ diễn viên kịch nói, anh đóng nhiều vai phụ trong các vở kịch, rồi sau này chuyển thể thành những bộ phim. Phạm Hải cũng đóng nhiều vai phụ trong các bộ phim, dựa trên những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Công Hoan, hay Vũ Trọng Phụng.

                Nghệ sĩ Phạm Hải là người của Hà Nội, tuy nhiên anh tâm sự, tôi chẳng có chính trị chính em gì cả, tôi không vào đoàn vào đảng, vì họ nói nguồn gốc của tôi  thuộc thành phần tư bản, không chuyên chính vô sản hay bần cố nông, nói chung là thuộc thành phần không tiến bộ không thể cho vào đoàn vào đảng.

                Phạm Hải nói: Như thế mà hay mình được tự do anh ạ.

                Từ lời hứa chúng tôi sẽ đến thăm chỗ ở mới của anh chị Phạm Hải, vậy mà phải mất đến 2 năm sau mới thành sự thật.

                Bởi vì rơi đúng vào giai đoạn Coronavirus Vũ Hán xuất hiện, bệnh dịch phát hiện lần đầu tiên chỉ là một cụm nhỏ tại ngôi chợ bán hải sản và thú rừng tại Vũ Hán Trung Cộng vào tháng 12 năm 2019. Nhưng sau đó lây lan với cấp số nhân trên toàn thế giới, sau này gọi tắt là Covid 19.

               Theo tổ chức Y Tế thế giới (WHO) đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp về sức khoẻ cả thế giới cần quan tâm. Mọi nỗ lực ngăn chặn gần như thất bại, mãi sau này Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên tìm ra loại thuốc chủng ngừa  thì bệnh dịch mới được kiểm soát và có chiều hướng thuyên giảm nhưng vẫn không trị dứt điểm.

                Cũng theo tổ chức Y Tế thế giới. Tính đến ngày 22 tháng 7 năm 2022, đại dịch đã gây ra hơn 567 triệu trường hợp và 6,38 triệu trường hợp tử vong được xác nhận. một trong những bệnh dịch gây chết chóc lớn nhất trong lịch sử.

                Tôi gọi phone để biết anh chị Phạm Hải có nhà hay không và xin anh đọc địa chỉ để tôi cho vào cellphone (google map) chỉ đường.

                Chị Mai vợ anh Hải trả lời phone, và chị rất vui khi biết vợ chồng chúng tôi đến thăm, chi đưa phone cho anh Hải đọc địa chỉ, tôi ghi lại và cho vào cellphone.

                Thật là tiện lợi qua hệ thống định vị của Google map, xe chạy đến đầu thì hệ thống chỉ đường hướng dẫn đến đó. Từ nhà tôi lái xe đến nhà anh Phạm Hải khoảng 20 phút.

                Tôi đến đúng địa chỉ là một toà nhà cao tầng, đúng là một khu chung cư nhìn vẻ bên ngoài khá khang trang và sạch đẹp, chỉ duy nhật là kiếm chỗ đậu xe hơi khó, tôi chạy vào cuối con đường và lái xe vòng lại thì cũng vừa lúc có một chiếc xe trên vỉa hè vừa bỏ đi, thế là tôi chạy đến lùi xe vào đúng chỗ trống bên kia đường.

               Hai vợ chồng tôi xuống xe đi băng qua con đường đến cổng chính của chung cư, chúng tôi đã thấy vợ chồng Phạm Hải đứng đón trước cửa, anh Hải đứng vịn theo cái xe đẩy (Handicap Walker), cả hai anh chị niềm nở chào đón chúng tôi.

              Gần nơi đó là một hội trường rộng lớn, tôi nghe có tiếng hát Karaoke những ca khúc Việt Nam của các cô bác người Việt đang sinh hoạt.

               Tôi chưa kịp hỏi thì chị Mai vợ anh Hải đã cho biết, đó là hội trường nơi sinh hoạt của chung cư này, các ông bà người Việt thường đến đây sinh hoạt hát karaoke cho nhau nghe, người Việt mình sống ở đây rất đông vui và rất đoàn kết.

               Tôi nhìn vào bên trong hội trường nhận thấy đa số là các vị lớn tuổi, và khá nhiều loại (Handicap Walker) rất tiện lợi vừa để vịn đi và khi cần cũng làm ghế ngồi nghỉ mệt.

               Anh chị Phạm Hải mời chúng tôi đi vào bên trong, một hành lang rộng rãi rất sạch đẹp, sáng sủa, trông như một khách sạn loại sang. Anh Hải dẫn chúng tôi vào thang máy, trên tay anh cầm theo cái remote control chỉ cần chạm nhẹ vào bảng số là có thể bấm số tầng lầu cho thang máy chạy.

               Nhà anh Hải ở tầng lầu thứ 4, bước ra khỏi thang máy la dẫy hành lang đèn sáng trưng, rất sách đẹp hai bên là những cánh cửa ra vào của từng căn hộ, đến trước cửa phòng, anh Hải dùng chìa khoá mở cửa, anh đẩy chiếc Walker vào trước rồi mời chúng tôi vào nhà.

               Bước vào nhà ngay bên trái cửa ra vào là nhà vệ sinh, bên phải là nhà bếp tương đối rộng rãi nối liền với phòng khách và một phòng ngủ. Phòng khách có một cửa sổ nhìn xuống khu vườn, ở đây không có ban công (balcony) như những nơi khác.  

              Sống tại trung tâm thành phố San Jose, một nơi được mệnh danh là “Thung Lũng điện tử” giá sinh hoạt và giá nhà cao ngất ngưởng mà có một nơi ở với giá tiền dưới $500 đô la một tháng tiền thuê nhà là quá tuyệt vời rồi tìm đâu ra nữa.

              Anh Hải rất niềm nở mời chúng tôi thăm nhà mới, vào cả phòng ngủ của anh, bên trong kê hai cái giường và một góc bên cạnh cửa sổ là cái bàn, tôi thấy anh đang để cái giá vẽ hình như anh đang vẽ một bức tranh phong cảnh nào đó.

             Anh nói đấy là cơ ngơi của tôi, tôi rất thích hội hoạ lại bắt đầu vẽ để làm thú vui tiêu khiển cho đỡ nhàm chán.

             Chị Mai rót nước trà mời chúng tôi ngồi chơi tâm sự đủ thứ về cuộc sống và con cái rồi đến các cháu. Chị Mai và bà xã tôi tâm sự cùng nhau, riêng tôi thì nói chuyện hội hoạ văn thơ với anh Hải.

             Vì lần thăm viếng này tôi có mang theo hai quyển sách do tôi viết và tự in ấn, tôi gửi tặng anh chị Phạm Hải

             Anh Hải nói đùa với tôi:

             Này tôi hỏi thật anh nhé, với cái đầu của anh thì chữ nghĩa ở đâu ra mà anh viết tới 6 quyển sách, sao mà tài thế, riêng tôi nghĩ mãi một câu cũng không được.

             Chi Mai cầm trên tay quyển sách và chị nói:

    Quyển sách này tôi sẽ đem xuống hội trường sinh hoạt để giới thiệu với các vị bô lão tại nơi đây, chắc là họ thích lắm.

              Chúng tôi lại cười vui.

              Từ cửa sổ nơi phòng khách khu chung cư, nhìn xuống dưới khu vườn với hàng cây và những băng ghế ngồi rải rác đặt bên cạnh những bãi cỏ và những khóm hoa, đây là một khu vườn hay nói cách khác, là một một sân chơi cho những người cư ngụ nơi đây xuống thư giãn, đi bộ thể thao mỗi buổi sáng, trong vườn đang có một vài người bước đi bằng cái Walker, hay bằng cây gậy chống, vài người ngồi nghỉ, ngắm hoa cỏ trong vườn.

              Nhìn chung đây là một công viên nằm giữa hai dãy lầu, để cư dân có thể xuống đi bộ dạo mát, hít thở không khí trong lành vào buổi sáng, ngay cả ban đêm nơi công viên này đèn bật sáng cũng rất đẹp.

              Các ông, các bà già thường còng lưng trên cây gậy đi dạo dọc theo con đường trong công viên, nơi có bóng mát của những hàng cây che bóng mặt trời.

               Mặc dù chúng tôi mới đến thăm khu chung cư này, nhưng tôi có cảm nhận, dường như người Việt chiếm đa số, còn lại là người Tàu và người Mễ và các sắc dân khác.

               Suy luận này cũng có phần hơi đúng vì, vừa vào cổng chính bên cạnh hội trường các ông bà người Việt chiếm lĩnh hát karaoke vang dội, đâu có sắc dân nào sinh hoạt tại đó.

               Anh Phạm Hải còn cho tôi biết thêm một chi tiết rất tình tứ tại hội trường sinh hoạt cũng là nơi đã kết nối duyên vợ chồng của hai cặp tình nhân.

               Nơi đây các cụ ông cụ bà đã đóng góp chung nhau tổ chức đám cưới cho các cặp tình nhân yêu nhau.

               Đầu tiên là cặp đôi cụ ông 84 tuổi người Việt, vợ chết đã lâu sống một mình trong chung cư, cụ thường xuyên xuống sinh hoạt tại hội trường và tại nơi này, một tình yêu muộn hay một cuộc tình cuối đời đã nảy sinh. Cụ ông 84 tuổi gặp một bà 67 tuổi cũng là người Việt goá chồng đã lâu, bà sống lủi thủi một mình trong chung cư, đôi khi người ta thấy cô con gái của bà đến thăm nhưng cũng thưa thớt có khi cả tuần mới đến thăm một lần, bà rất buồn và cô đơn không người tâm sự.

               Hầu như ngày nào bà cũng đến hội trường sinh hoạt chung với mọi người và hát karaoke cho vui, tại nơi này bà đã gặp ông 84 tuổi, như một tiếng sét ái tình đến muộn vào tuổi đã  xế chiều.

               Hai ông bà đã đồng ý tiến hành hôn nhân tại hội trường này, với sự đóng góp công sức và lời chúc mừng từ những vị cao niên sống trong khu chung cư này.

               Hôm tổ chức hôn lễ có cả người Tàu người Mễ tham dư thật đông vui. Mọi người đều ăn mặc thật đẹp, các ông thì mặc vét (vest), các bà thì mặc đầm, có bà người Việt còn mặc cả áo dài tha thướt đến tham dự đám cưới.

              Một đám cưới thật đơn sơ nhưng thấm đậm tình nghĩa đúng là “Nhất cận thân nhì cận lân”. Quà mừng đám cưới là sự đóng góp chung của mọi người.

              Vậy mà không lâu sau đó, lại có một đám cưới thứ hai.

              Lần này là cụ ông 80 tuổi người Việt cũng góa vợ sống một mình, cặp đôi với một bà 68 tuổi người Việt goá chồng. Cả hai đã nên duyên vợ chồng và đám cưới cũng được tổ chức tại hội trường này, với những lời chúc mừng và những tiếng hát karaoke tới 7 giờ tối, vì theo quy định sau 10 giờ đêm không được làm ồn.

               Sau buổi tiệc cưới thật vui, cặp vợ chồng son dìu nhau vịn vào cái Walker chậm rãi đi về căn chung cư của mình.

               Chắc hẳn chủ rể cũng hơi lo buồn vì súng đã hết đạn và cô dâu cũng buồn theo vì cái lò nướng lâu ngày tro bụi bám đầy không biết có còn đủ sức nóng để nướng chín một củ khoai đã tong teo héo khô.

               Nhưng dù sao đi nữa trong đêm động phòng hoa trúc, đôi uyên ương vần tràn ngập những giấc mơ thật đẹp của một thời son trẻ khi vừa mới biết yêu.

               Một điểm nổi bật của khu chung cư này là. Mỗi tháng một lần xe phát thực phẩm của thành phố đến phát thực phẩm cho từng gia đình, các ông bà người Việt kêu réo rủ nhau đến hội trường lãnh từng gói thực phẩm bao gồm thịt gà, rau quả và sữa tươi cùng với thực phẩm đóng hộp.

               Các ông các bà đi ngang hành lang nhà nào Việt Nam và quen biết là gõ cửa thông báo inh ỏi.

    Xuống lãnh thực phẩm nhé, xe đã đến rồi.

    Những câu nói to như thế được lan truyền thông báo cho nhau, đây cũng là một nét sinh hoạt của cộng đồng các vị bô lão người Việt cư ngụ nơi đây.

               Có một điều kể ra cũng rất lạ. Vốn liếng tiếng Anh lõm bõm chưa đầy cái lá đa, các ông bà già người Việt nói tiếng Mỹ phát âm theo âm điệu tiếng Việt, mà lại có thói quen hay bỏ dấu huyền, ví dụ đường (Senter) thì đọc là (sen tờ), đường (Tully) thì đọc là (tu lì). Ấy thế mà sự giao tiếp với các sắc dân khác như người Mễ, người Mỹ hay người Tàu cũng chót lọt họ đều hiểu nhau, thế mới tài.

               Anh chị Phạm Hải tâm sự với tôi.

    Anh biết không vợ chồng tôi đang cố gắng học tiếng Mỹ, cố gắng học thuộc 100 câu hỏi để đi thi quốc tịch Mỹ, mà khó quá học trước thì quên sau.

              Anh Hải lại pha trò. Mình lớn tuổi học không vô anh ơi.

    Tiếng Anh thì quên hết mà tiếng Em thì nhớ hoài, vừa nói anh lại cười ha hả..

             Tôi nói với anh Hải

             Thôi tạm quên chuyện đó đi

    Tôi muốn hỏi thăm anh về khu chung cư này, tôi thấy rất sạch đẹp và rất yên tĩnh, có bao giờ anh hải thấy hàng xóm lớn tiếng cãi nhau, hay chuyện gì không hay xẩy ra không?

             Câu hỏi như gãi đúng chỗ ngứa. Anh vội trả lời ngay. Có đấy anh ạ!

    Anh Hải kể cho tôi nghe một câu chuyện đã xảy ra tại khu chung cu này, chuyện cũng mới gần đây thôi.

             Anh biết không, trước cửa nhà tôi nhìn về phía bên phải gần cuối hành lang, có căn chung cư của một ông người Mỹ. Ông này đã ngoài 70 mươi tuổi, tướng tá cao gầy, đầu thì cạo trọc, ông này thường kết bạn với các bà, các ông người Mỹ vô gia cư, có nhiều khi thấy vài người đến thăm ông rồi ở lại.

             Đôi lúc họ nói cười ồn ào ngoài hành lang

    Mình không biết họ nói gì. Nhưng nhìn thấy dáng dấp quần áo lôi thôi lếch thếch, mặt mũi lấm lem trông như dân bụi đời nghiện ngập là mình biết họ là người vô gia cư (homeless).

             Anh Hải kể tiếp:

    Ông Mỹ này luôn thể hiện một thái độ không thân thiện, đôi khi người ta bất ngờ gặp ông đi bộ, họ ngỏ lời chào (Hi! Good Morning) nhưng ông tỏ thái độ khó chịu, làm ngơ không thèm nhìn, do đó rất nhiều người trong chung cư không thích ông ta.

             Một hôm mọi người xôn xao bàn tán ồn ào cả lên vì có một người đàn bà chết trong căn chung cư của ông Mỹ già đầu trọc.

              Tôi ngắt ngang lời kể chuyện của anh Hải.

    Đây là câu chuyện hấp dẫn. Anh Hải kể cho tôi biết chi tiết đầu đuôi chuyện xảy ra như thế nào?

    Anh Hải nhìn tôi rồi nói. Ông nhà văn này lại có vẻ như ngứa ngáy nghề nghiệp lại muốn viết truyện ngắn rồi phải không?

    Đúng như thế, vì đây là câu chuyện nghe có vẻ li kỳ hấp dẫn như phim kinh dị, mình phải viết lại chứ.

                Anh Hải bắt đầu kể những diễn biến về câu chuyện xảy ra.

    Anh Hải nói, cách nay vài tháng khoảng như đầu năm nay.

                Căn chung cư của ông Mỹ già đầu trọc, đóng cửa im ỉm suốt nhiều ngày, không ai nhìn thấy ông Mỹ già ra vào.

    Nói chung là hàng xóm nơi đây thì đèn nhà ai nấy sáng không ai hơi đâu mà để ý đến nhà bên cạnh, mặc ai người đó lo, không ai dở hơi đi lo chuyện ruồi bu hàng xóm làm gì cho rách chuyện.

                Anh Hải kể tiếp hàng xóm bắt đầu hơi bàn tán về một mùi hôi khó chịu phát ra từ khu vực gần căn phòng của ông Mỹ đầu trọc.

    Nhất là hai nhà ở bên cạnh họ nói mùi hôi thối bốc ra rất khó chịu, họ đã thử gõ cửa phòng thì thấy im lặng không có tiếng trả lời.

                Rồi vài ngày sau mùi hôi thối trở nên nồng nặc rất khó chịu hơn, mỗi khi đi ngang qua khu vực này.

    Mọi người phải báo cho văn phòng chung cư biết để họ kiểm tra.

    Trên văn phòng cho người (manager) quản lý chung cư đến căn phòng này, đầu tiên họ gõ cửa rồi đập cửa thình thình, nhưng không thấy ai trả lời.

               Bắt buộc người quản lý dùng chìa khoá mở cửa phòng kiểm tra, vửa bước vào căn phòng thì mùi hôi thối tràn ngập trong phòng, người quản lý phải bịt mũi bước vào kiểm tra, phòng khách rồi đến phòng ngủ.

    Người manager tá hoả buột miệng kêu lên: O my God (Ôi Chúa Ơi)

    Trước mặt ông ta là thân xác người đàn bà nằm chết trên thảm gần bên cạnh cái giường ngủ, bà chết trong tư thế cánh tay như đang muốn với về hướng cái phone để trên bàn. Chắc khi ấy bà ta bị khó thở muốn với tay lấy cài phòng để gọi 911, nhưng không kịp, bà đã ngã nằm trên thảm và ra đi.

    Người quản lý (Manager) vội gọi cho văn phòng báo về tình trạng này và ông lập tức gọi cho 911 là tổng đài chuyên lo về những tình huống sự việc xảy ra gây nguy hại. (911 What’s your emergency) đây là 911 trường hợp khẩn cấp của bạn là gì? Đây là một sự kiện có liên quan đến một án mạng đang xảy ra.

                  Không đầy 15 phút sau, tiếng còi hụ inh ỏi vang động cả một khu phố, tiếng còi báo động càng lúc càng gần, những chiếc xe cấp cứu đã đậu trước cổng, đầu tiên là vài chiếc xe cảnh sát đang ở gần khu vực chạy đến, sau đó là xe cứu thương và kèm theo cả xe cứu hoả.

    Hàng loạt xe cảnh sát và xe cấp cứu đậu ngay trước cổng chính, nhân viên cấp cứu cùng với cảnh sát họ chạy vào trong hành lang và lên thang máy chạy đến căn phòng đang xảy ra án mạng.

    Một số đông cư dân bắt đầu tò mò, họ kéo đến xem, cảnh sát phải yêu cầu họ về nhà. Nhân viên cấp cứu vào bên trong phòng cùng với cảnh sát, nhìn qua thi thể nạn nhân hầu như tất cả đều xác nhận người đàn bà này đã tử vong từ lâu, họ không cần sơ cứu mà họ cần phải phong toả hiện trường, chụp hình hiện trạng và tìm kiếm chung quanh xem có hung khí hay bất cứ thứ gì gây ra án mạng.

    Họ hỏi người quản lý về người chủ căn chung cư này là ai tên gì và hiện nay đang ở đâu cùng với số phone để liên lạc. Thật ra người manager khu vực này cũng chỉ biết tên tuổi và số phone của chủ nhà, nhưng không biết hiện tại người này đang đi đâu, vì có ai báo đâu mà biết.

    Cũng may lúc đó người hàng xóm ở bên cạnh đang đứng xem, ông ta cho biết cách nay 3 ngày tôi thấy xe cấp cứu đến và đưa ông ta vào bệnh viện.

                Ngay lập tức cảnh sát đã xác nhận được bệnh viên mà người chủ nhà đang điều trị.

    Ai cũng hiểu được cảnh sát đã cho người đến thẳng bệnh viện để liên lạc trực tiếp với chủ nhà, ông chính là người MỸ già khó tình có cái đầu cạo trọc. Ông đã nằm bệnh viện mấy hôm nay, và ông vừa trải qua một ca giải phẫu thập tử nhất sinh. Mổ trên đầu để điều trị khối u.

               Cái đầu của ông đã bị cạo láng bóng và băng bó một vết thương thật dài

               Đây là bằng chứng ngoại phạm, chứng minh người chủ căn chung cư không liên quan đến cái chết của người đàn bà.

    Tuy nhiên Cảnh sát vẫn phải hỏi cung để biết thêm vài chi tiết liên quan.

    Cảnh sát hỏi: Ông có biết bà Camila

    Bà ấy là bạn gái của tôi, Ông Mỹ cạo đầu trả lời.

    Cảnh sát nói tiếp đi thẳng vào vấn đề

    Ông biết bà Camila đã chết trong phòng ngủ của ông?

    OMG “Ôi Chúa Ơi” Ông bệnh nhân người Mỹ tỏ ra ngạc nhiên. Ông nói tiếp Cô Camila là bạn gái của tôi hai ngày trước khi đi bệnh viện, tôi đã yêu cầu cô ta đến giúp tôi, vì khi ấy cái đầu của tôi nó nhức như búa bổ vào đầu, tôi cần cô ấy săn sóc.

     Hôm xe cấp cứu đến đưa tôi đi bệnh viện, cô Camila cũng có mặt, cô ấy định đi về, nhưng tôi yêu cầu Camila ở lại coi nhà giúp tôi.

    Chuyện gì đã xảy ra cho cô ấy. Ông Mỹ bệnh nhân hỏi ngược lại cành sát.

    Bà Camila đã chết cách nay 3 ngày, tình nghi chết vì nhồi máu cơ tim

    Chúng tôi đang chờ Pháp Y xác định nguyên nhân cái chết.

               Trở lại hiện trường tại căn phòng trong khu chung cư, sau khi cảnh sát đã làm đủ thủ tục điều tra, nhân viên y tế đã bỏ xác chết vào một túi màu đen, đặt trên băng ca (xe đẩy), họ đem xác nạn nhân rời khỏi chung cư.

                Căn phòng trở nên trống vắng để lại một mùi hôi thối từ xác người chết vẫn còn lảng vảng trong không khí.

                 Rồi mọi chuyện cũng qua đi, đời sống vẫn tiếp diễn, mọi lời đồn đoán cũng tự nó tan loãng dần vào không gian yên tĩnh vốn có của toà nhà chung cư này.

                 Khoảng một tuần sau người ta lại nhìn thấy ông Mỹ già đầu trọc có một vết sẽo dài đang băng bó, nằm trên cái đầu cạo láng bóng. Ông đã trở về căn chung cư của mình, và thỉnh thoảng ông vẫn đưa một vài người bạn đến thăm.

    Tất cả những niềm đau, những đoạn trường ai oán, tất cả những nỗi đau khắc khoải của một kiếp người tồn tại nơi trần thế này rồi cũng sẽ qua đi, một ngày mai khi mọi thứ đã trở thành hư vô.

    Rồi một sớm mai khi bình minh vừa ló rạng, một ngày mới lại bắt đầu chan hoà ánh sáng soi rọi từ mặt trời, tiếng chim hót trên cây xanh, những khóm hoa mới vừa chớm nở. Lòng người lại thấy vui và yêu đời.

                Duy nhất còn lại người viết truyện, vẫn muốn tìm hiểu thêm về nguyên nhân cái chết của người đàn bà tên là Camila.

    Camila nàng là ai? Cái tên rất đặc trưng của người con gái gốc Hispanic

    Thoạt mở đầu câu chuyện về cái chết bí ẩn của người đàn bà. Người đàn bà này là bạn của ông Mỹ già đầu trọc, người thường đem bạn đến căn chung cư của mình. Rất nhiều cư dân nơi đây đã nhìn nhận, những người bạn của ông, họ trông giống như những người vô gia cư (Homeless).

               Một trong nhóm người này có cô gái người Mễ tên là Camila

    Sau cái chết của cô. Pháp y đã xác nhận cô chết vì nhồi máu cơ tim và trong máu có nhiều chất kích thích ma tuy. Người ta cũng đã liên lạc tìm thân nhân, nhưng không có ai và họ kết luận cô Camila là người vô gia cư (homeless).

    Trên thực tế qua nhiều thống kê và nhận định, người ta đã đưa ra kết luận.

    Nhiều phụ nữ trở thành vô gia cư (Homeless) sau khi trải qua bạo lực gia đình,

    hay bị chấn thương tâm lý nặng nề qua việc bị bạo hành tình dục. Một số là nạn nhân đã trốn thoát khỏi nạn buôn bán tình dục.

    Những yếu tố này cùng với khủng hoảng tâm lý chán nản, hoàn cảnh đưa đẩy đến tình trạng vô gia cư. Chính điều này đã góp phần dẫn đến một thực tế đau lòng. Hầu như 1/3 thành phần phụ nữ vô gia cư đều lạm dụng chất ma tuý Heroin và Crack Cocaine.

    Chính chất kích thích có tác dụng phụ của cocain là gây ảo giác hoang tưởng, nhiệt độ cơ thể tăng cao và nhịp tim bị loạn nhịp.

    Nếu chất kích thích sử dụng với liều lượng lớn hơn hay theo cách sử dụng khác như chích vào mạch máu, hay hít vào mũi, có thể gây ra tình trạng buồn ngủ, buồn nôn, làm chậm nhịp tim, gây ra tổn thương thần kinh não bộ, mất phương hướng, hoang tưởng và lên cơn co giật.

                Những từ ngữ thông dụng tại Hoa Kỳ ám chỉ các loại ma túy hiện hành là:

    (Coke, crack, meth, speed). Đó là một số thuật ngữ viết tắt cho các loại chất kích thích khác nhau thuộc nhóm ma túy gây nghiện cao, thường được sử dụng ở Hoa Kỳ.  Những chất kích thích này thoạt đầu làm tăng sự tỉnh táo, chú ý và năng lượng đồng thời làm tăng huyết áp, nhịp tim và nhịp thở.

                Có một vấn nạn đang gia tăng tại Hoa Kỳ, mà nguyên nhân không phải là cocain, heroin hay methamphetamine. Mà nó chính là thuốc kê đơn loại thuốc giảm đau, đã gây ra các hậu quả sức khỏe ngắn hạn và dài hạn đối với mỗi loại thuốc kê đơn được sử dụng không phù hợp, và nó đang ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của thanh thiếu niên..

                 Người đàn bà Camila đã tử vong trong căn chung cư vì tình trạng ngộ độc ma tuý dẫn đến tử vong do nhồi máu cơ tim. Camila đã ngoài 55 tuổi là người tình không chính thức của người MỸ đầu trọc, cái đầu trọc là nguyên nhân của sự điều trị chứng bệnh nhức đầu kinh niên

    Camila là người đàn bà đáng thương, có thể bà là nạn nhân của sự bạo hành tình dục rồi dẫn đưa đến tình trạng nghiện ngập rồi không nơi nương tựa vô gia cư.

    Tất cả cũng chỉ là một giải thuyết riêng của người viết truyện, không có gì làm bằng chứng xác thực.

    Trở lại với cái chết của bà Camila, đã gục chết trong phòng ngủ, thân xác của bà đã trải qua bà ngày, đó cũng là thời gian khá dài để thân xác bị phân huỷ.

    Vậy thì việc đầu tiên chúng ta phải bàn một chút về sự phân huỷ.

    Thời điểm thân chết đến, trái tim sẽ ngừng đập, toàn thân sẽ bất động, hơi thở ngắn gấp gáp và vành tai bắt đầu lạnh đi vì thiếu sự lưu thông máu huyết. Bên trong cơ thể máu mất dần màu đỏ, phổi ngừng hoạt động gây ra một âm thanh nghe rất kỳ lạ, người ta gọi đó là (Tiếng gọi của tử thần).

    Tuy nhiên trong giai đoạn này, bộ não con người chưa thật sự chết hẳn mà vẫn còn khả năng thực hiện chữa lành các bộ phận khác

    Chỉ khi nào giờ G còn được gọi phút số không, là thời điểm cuối cùng. Tức là bộ óc đã chết lâm sàng khi không còn nhận đủ Oxy.

    Cái chết của bộ óc, đây là bộ phận điều khiển quan trọng nhất của cơ thể con người, khi chết sẽ kéo dài thêm nhiều hệ luỵ

    Đồng tử cặp mắt đứng tròng, không còn phản ứng với ánh sáng. Da người trở nên xanh xao do máu ngừng lưu thông, nhiệt độ cơ thể hạ thấp. Không đầy 10 phút sau, hiện tượng bên trong cơ thể bắt đầu xuất hiện dòng đối lưu máu, đỏ và xanh trộn lẫn nhau, cơ cơ bắp tay chân duỗi ra, ruột và bàng quang hoàn toàn ngừng co bóp.

    Các tế bào não chết hàng loạt và hóa lỏng, đồng tử cặp mắt nở rộng và đục dần. Sau vài tiếng cơ bắp người chết bỗng dưng co lại vì lượng axit lactic tăng cao, nó cũng gây ra hiện tượng co cứng các mô thần kinh khác, khiến cho tóc và râu hay lông có vẻ mọc dài ra.

    Vài ngày sau khi chết, các loài vi khuẩn nằm trong ruột sẽ ăn các mô chết và thải ra khí, khiến vòng bụng trương phồng. Các loài vi khuẩn trong ruột sẽ đồng loạt tham dự buổi đại tiệc (phân huỷ xác chết) giải phóng hai hợp chất (putrescine) và (cadaverine) đây là là hai hợp chất gây ra mùi hôi thối khó chịu từ xác chết.

                Tất cả những diễn biến phân huỷ của xác chết cũng đủ tư cách pháp lý cho các nhân viên Y Tá hay Bác sĩ làm công việc giám định xác chết để làm bằng chứng Pháp Y.

     

    Viết xong tháng 7 năm 2022

    Tế Luân

    Ghi chú:

    Dựa trên câu chuyện có thật.

    Tác giả đã thêm phần hư cấu để diễn tiến câu chuyện

    hấp dẫn hơn

  • Cao Bồi Già,  Cao Mỵ Nhân,  Phương Hoa,  Thơ Đường Xướng Họa,  Văn

    Văn – “HƯƠNG MÙA VU LAN: Tâm Minh Ngô Tằng Giao” – CAO MỴ NHÂN & THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA: “HƯ KHÔNG” -Thơ Tâm Minh Ngô Tằng Giao và Thơ Họa

    HƯƠNG MÙA VU LAN.      
    * Cao Mỵ Nhân  

    Ai cũng biết “văn là người” rồi. Qua thơ lại càng thấy rõ Thơ với Người không thể như đầu sông cuối bể. Bể là biển chứ không phải là cái bể nước dùng trong nhà. Và, Thơ với Người đã cùng bơi trên một dòng nước. Vì thế hôm nay tôi xin đan cử một dòng Thơ rất bình thường ở hình thức, nhưng lại vòng vèo, tươi mát như mưa xuân trú ngụ nơi tâm hồn.

    Tác giả của dòng thơ tươi mát này vốn là một đạo hữu, luật sư, đã từng nhập thiền hàng buổi kể từ khi còn ở quê hương Đà Lạt, tới lúc qua Hoa Kỳ, mà cành Vô Ưu vẫn nở hoa trước mặt. Ông ta không phải đi tìm mới có bởi ông luôn chăm sóc vườn Từ Bi ngay tại ta gia, ngõ hầu bước ra xã hội, với một tâm tư tình cảm hoan ca, hướng về cõi Phật.

    Thứ nhất là tu tại gia

    Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.

    (Ca dao Việt Nam)

    Luật sư Ngô Tằng Giao dùng pháp danh Tâm Minh làm bút hiệu, sinh ở hà Nội, lớn lên ở Sài Gòn, và lập nghiệp ở Đà Lạt. Ông đã gia nhập Luật Sư Đoàn từ năm 1962, là cháu đích tôn của cụ Ngô Thúc Địch, Vị quan tham chánh thời Quốc Trưởng Bảo Đại.

    Cụ cố Ngô Thúc Địch người Hà Nội, nói tiếng Bắc, theo đạo Phật, nên chẳng thể là thân bằng quyến thuộc của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, gốc Quảng Bình được, điều này cho thấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm không kỳ thị tôn giáo, và đồng thời cũng cho thấy, cụ Ngô Thúc Địch tuy mang họ Ngô, song không chung gia phả với Tổng Thống thời đệ nhất Cộng Hòa.

    Và, điều quan trọng hơn, người cháu đích tôn là đạo hữu, thi sĩ, luật sư Tâm Minh Ngô Tằng Giao khi biện hộ cho các thân chủ ở chốn quan trường, ông đang còn ở tuổi thanh niên, lại không ồn ào kiểu đấu tranh tâm lý, mà rất chính trị, là bày tỏ thái độ khoan hòa, thể hiện lẽ công bằng, thanh tịnh, hiền hòa như các tác phẩm sau này ở hải ngoại của ông.

    Vì muốn phổ biến những lời hay ý đẹp của Đấng Thế Tôn, đạo hữu thi sĩ Tâm Minh Ngô Tằng Giao đã uyển chuyển viết những dòng tâm kinh Phật toàn thể bằng thơ lục bát, hầu phổ biến sâu rộng tới đại chúng, ngoại trừ hai cuốn Tìm Hiểu Kinh Pháp Cú và 101 truyện thiền, chuyển ngữ từ 101 Zen Stories của Nyozen Senzaki và Paul Reps bằng văn xuôi.

    Bên cạnh 101 tác phẩm thơ, văn về “cõi Phật” là cuốn Mưa Xuân (Spring Rain) chuyển dịch thơ Anh ngữ của nhiều tác giả ngoại quốc từ nhiều không gian và từ nhiều thời đại, trong đó có tác giả Rudyard Kipling (1865-1936) mà thời trung học, tôi đã phải học thuộc lòng một bài thơ của tác giả đó.

    Trong truyện Quan Âm Thị Kính, thi sĩ đạo hữu Tâm Minh viết lục bát như tất cả các thơ văn chương đại chúng khác, có điều nhà thơ gốc khoa bảng này kể chuyện ngọn ngành hơn:

    Xuất gia từ thuở thiếu thời

    Tu qua chín kiếp luân hồi thành tâm

    Rũ gần sạch hết bụi trần

    Và kỳ chứng quả cũng gần tầm tay

    (Quan Âm Thị Kính)

    Thế nhưng qua thơ chuyển dịch Mưa Xuân thì Tâm Minh trọn vẹn là thi sĩ trữ tình lãng mạn:

    Mưa Xuân reo sấm không trung

    Lòng em cuồng nhiệt trong lòng lửa yêu

    Môi chàng từng thốt đã nhiều

    Mắt chàng đêm đó muôn điều nói thêm

    (Mưa Xuân)

    Đó là thơ Spring Rain của Sara Teasdale (1884-1933) dòng thơ xúc cảm mang phong cách văn học.

    Tâm Minh Ngô Tằng Giao chưa từng “vỗ ngực” ông sáng tác thơ mà luôn khiêm tốn nói mình là soạn giả. 

    Tác phẩm của ông gồm:

    – Truyện cổ Phật giáo 1, 2, 3.

    – Cuộc đời Đức Phật Thích Ca

    – Kinh Pháp Cú

    – Tặng một vầng trăng

    – Truyện thơ thần tiên Đức Phật 1, 2, 3, 4.

    – Tìm Hiểu Kinh Pháp Cú

    – Kinh Bách Dụ

    – Niết Bản (dịch)

    – Quan Âm Thị Kính

    Và mới nhất đối với tôi, trong mùa Vu Lan này, trong gói quà đã cất kỹ từ vài năm nay, 2 cuốn thơ thật đẹp, thật sang, thật trân trọng hiện ra:

    – Mục Liên Thanh Đề (Sáng tác)

    – Mother’s Love (Tình Mẹ, dịch thuật)

    Thi sĩ luật sư Phật tử thuần thục khẳng định đó là Hương Mùa Vu Lan, với 54 bài thơ tuyển về những hiếu hỉ vuông tròn của đấng sinh thành gương mẫu đáng ca ngợi với hình ảnh những người con tiêu biểu.

    Tâm Minh Ngô Tằng Giao đã từ lâu mang vóc dáng của một thiền sĩ, tâm tư tình cảm lắng trầm, phóng khoáng, khá trọn vẹn là thi sĩ…thiền. Không dám viết thiền sư, vì tác giả, hiền thê và 3 ái nữ đều là Phật tử chính thống, hiện cư ngụ ở Virginia, nên nhà thơ đôi lúc cũng bồng bềnh trước thực hư, huyễn ảo, bài thơ gần nhất diễn tả cõi mù sương đạo, đời ấy:

    Hư Không

    Bồng bềnh ẩn hiện bóng ngư ông

    Neo chiếc thuyền nan giữa bến sông

    Rộn rã thả câu trong quạnh vắng

    Lao xao buông lưới giữa mênh mông

    Chập chờn cõi ảo mù sương bạc

    Thấp thoáng bờ chân rạng ánh hồng

    Muôn đợt sóng vàng loang nước biếc

    Dập dồn khuất nẻo chốn hư không

    Tâm Minh Ngô Tằng Giao

    *

    Bài thơ này đã có một số vị họa, nhưng bởi tử vận “mông” cuối câu thực đề (câu thứ 4) khiến có bài họa đi vào…tai họa, là ngoài chữ “mênh mông” ra, thì còn gì hay hơn từ “mênh mông” đó chứ.

    Thế nên, giới trân trọng Đường thi, không thể gò ép chữ “mông” tầm tầm, làm khách thưởng ngoạn phải chau mày khó cảm thông.

    Vì nội dung là thơ thiền, nên một thi sĩ gởi bài họa thật tương đối, và thật tương kính là nhà thơ Đường Luật Nguyễn Kinh Bắc viết như sau:

    Tâm Không

    Cửa thiền thanh thản dáng sư ông

    Vui cảnh huy hoàng của núi sông

    Dân tộc âu ca thời thịnh Việt

    Giặc thù tan tác, buổi bình Mông

    Câu thơ ngan ngát non Yên Tử

    Nền đạo bồi vun giống Lạc Hồng

    Rừng Trúc đêm nay xào xạc gió

    Một trời lắng đọng giữa tâm không

    Nguyễn Kinh Bắc

    Bài xướng thiền, nên bài họa cũng phải thiền, Tâm Minh Ngô Tằng Giao chơi “phá bằng” (bồng bềnh). Nguyễn Kinh Bắc cũng “phá bằng” (cửa thiền) và xử dụng nguyên nội dung lịch sử vua nhà Trần thời thịnh Việt, sau khi bình quân Mông Cổ, vua Trần đã lên núi Yên Tử lập chùa tu, phái Trúc Lâm Yên Tử, “rừng Trúc” đầu câu chuyển (thứ 7) được tôn phong từ đó, có thể vậy.

    Như thế, bài thơ thiền Tâm Không, nhà thơ Nguyễn Kinh Bắc họa thật nhất khí (một mạch câu chuyện vua Trần Nhân Tông đánh giặc Nguyên Mông) và nhất quán (cùng cách nhìn thiền với tác giả bài xướng Hư Không của Tâm Minh Ngô Tằng Giao).

    Mỵ tôi vốn cũng tập toạng làm thơ Đường Luật, qua phảng phất khói sương “thiền” thôi. Biết gặp vần “mông” tử vận ngay, bèn chợt nhớ một phần đời thơ của thi sĩ cận đại tài hoa Hàn Mặc Tử ở Quy Nhơn xưa. Cố thi sĩ được điều trị bệnh phong tại bệnh viện Trại Cùi Quy Hòa, ở bên kia Ghềnh Ráng, và nếu đi từ trong Nam ra, khách phải vượt đèo Cù Mông, xin tạm họa thế này:

    Huyền Không

    Nghe sầu lãng đãng bước thi ông

    Biển gọi thuyền trăng ở cuối sông

    Thấp thoáng lương y qua núi Ráng

    Chơi vơi bạch mã vượt Cù Mông

    Mõ xa ủ mãi tàn hoa lửa

    Sân lạnh đầy thêm xác pháo hồng 

    Đã khiến Hàn quân rời cõi tục

    Tạ từ vần điệu gởi huyền không

    Cao Mỵ Nhân (8/2014)

    Sự thực thì thơ xướng được quyền “hay”, lý do thơ xướng thoải mái tìm vần điệu, ngôn từ, ý tứ. Thơ họa đúng nghĩa chỉ là…họa mà thôi, đôi khi ghép chữ lạc lõng, có khi còn vô nghĩa nữa.

    Thế nhưng bài họa Tâm Không của Nguyễn Kinh Bắc lại có dáng dấp của bài thơ xướng khác, nếu như khách thơ không được đọc bài Hư Không của Tâm Minh Ngô Tằng Giao.

    Còn bài Huyền Không của Cao Mỵ Nhân thì chẳng qua kẻ họa thơ muốn huyền ảo tâm tư cụ cố thi ông Hàn Mặc Tử, tác giả bài thơ lừng danh Đây Thôn Vỹ Dạ, có câu:

    Thuyền ai đậu bến sông trắng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay

    (Hàn Mặc Tử)

    Nên tưởng tượng vị lương y qua Núi Ráng để chữa bệnh nan y cho Hàn thi sĩ, đồng thời khách văn nhân, người mộ điệu…phi ngựa trắng (bạch mã dành cho văn quan, tao nhân mặc khách) vượt Cù Mông là cái đèo cao ngất, xẻ đôi núi, hình chữ V ở Phú Thạnh, ngoại vi thành phố Quy Nhơn. Cũng chỉ vì vần “mông” của Tâm Minh Ngô Tằng Giao, mà Cao Mỵ Nhân phải xử dụng địa danh “Cù Mông” đấy ạ.

    Do đó, để giới thiệu với quý vị độc giả Chốn Bụi Hồng, quý đạo hữu của Tâm Minh, quý thi hữu, bằng hữu của luật sư Ngô Tằng Giao, tôi xin được lần nữa vẽ lại hình ảnh tươi mát, trong sáng của dòng thơ đạo vô ưu, phẩm chất đức hạnh vô cùng, vô ngã, mà người Phật tử đã gởi gắm tâm tình vào các truyện thơ Phật Giáo Việt Nam, lời thơ chân phương, hỉ xả, mang âm hưởng trung hậu đầy dân tộc tính của Ngô thi sĩ nêu trên.

    Hawthorne, 8-8-2015

    Cao Mỵ Nhân (HNPĐ)

    Kính thăm LUẬT SƯ NGÔ TẰNG GIAO

    *

    Mười lăm năm bặt tin nhau

    Đông tây biền biệt một mầu nhạt phai

    Xin thưa biển rộng, sông dài 
    Còn nguyên ngưỡng mộ văn tài trượng phu

    *

    Vẫn nghe bạn xứ sương mù

    Cho tin đạo hữu luật sư tinh tường 

    Người cùng gia quyến bình thường

    Quen tay vẫn viết những chương Phật Từ 

    *

    Mười lăm năm tưởng huyễn hư

    Hoá ra tất cả riêng tư vẫn còn 

    Vẫn nghe nước chảy đá mòn

    Cuốn đi cát bụi vàng son đường đời 

    *

    Tháng ngày bạch mã rong chơi

    Bỏ quên xích thố bên trời điêu linh

    Tơ vương thơ buộc nỗi mình

    Chỉ còn ngôn ngữ tự tình tháng năm.

    *

    CAO MỴ NHÂN

    HƯ KHÔNG

    Bồng bềnh ẩn hiện bóng ngư ông

    Neo chiếc thuyền nan giữa bến sông

    Rộn rã thả câu trong quạnh vắng

    Lao xao buông lưới giữa mênh mông

    Chập chờn cõi ảo mù sương bạc

    Thấp thoáng bờ chân rạng ánh hồng

    Muôn đợt sóng vàng loang nước biếc

    Dập dồn khuất nẻo chốn hư không

    Tâm Minh Ngô Tằng Giao

    Thơ Họa:

    HUYỀN KHÔNG

    Nghe sầu lãng đãng bước thi ông

    Biển gọi thuyền trăng ở cuối sông

    Thấp thoáng lương y qua núi Ráng

    Chơi vơi bạch mã vượt Cù Mông

    Mõ xa ủ mãi tàn hoa lửa

    Sân lạnh đầy thêm xác pháo hồng

    Đã khiến Hàn quân rời cõi tục

    Tạ từ vần điệu gởi huyền không.     

    Cao Mỵ Nhân

    *

    VÔ ƯU

    Sóng gợn chao nhoà bóng cụ ông

    La đà thả mái dọc ven sông

    Trí xao người mộ nơi sầm uất

    Tâm tĩnh ta cần chốn quạnh mông

    Dẫu lúc bình minh trời điểm thắm

    Hay khi chiều xuống cảnh tô hồng

    Phong ba bão táp đang vần vũ

    Lòng chẳng ưu phiền vẫn trống không

    Phương Hoa

    July 18, 2022

    *

    TĨNH TẠI

    Bên bụi lau già, một lão ông

    Hành thiền, tĩnh tại ở ven sông

    Chiều buông lặng lẽ, ngày hiu hắt

    Sương tỏa nhạt nhòa, cảnh quạnh mông

    Mặt nước êm đềm loang sóng nhẹ

    Chân trời yên ả phớt mây hồng

    Bóng người trầm mặc như pho tượng

    Màn tối loang dần, phủ khoảng không

     Sông Thu

    ( 20/07/2022 )

    *

    ÔNG CHÀI.

    Thấp thoáng con thuyền một lão ông,

    Buông cần đợi cá ở ven sông.

    Trên bờ lau sậy bay phơ phất,

    Mặt nước rong bèo nổi quạnh mông.

    Nắng tắt sương sa mây khói xám,

    Triều lên sóng cả lửa chài hồng.

    Ngâm hò oán trách đời đen bạc,

    Tâm sự đôi lời gửi cõi không.

      Mỹ Ngọc.

    July 20/2022.

    *

    CÂU THỜI

    Ghềnh đá hằng ngày có lão ông

    Ra ngồi trầm mặc ở ven sông

    Buông cần chẳng lưỡi nhìn xa vắng

    Thả lưới không mồi ngó quạnh mông

    Cá lội tung tăng làn nước biếc

    Thuyền trôi lờ lững ánh chiều hồng

    Vầng dương dần khuất người thư thả

    Vui vẻ ra về chiếc giỏ không .

    songquang

    20220720

    *

    TĨNH LẠC

    Tranh chiều lặng lẽ một mình ông

    Thoải mái tâm hồn hưởng gió sông

    Ngắm vạt trời trong cười vớ vẩn

    Nhìn làn nước bạc nghĩ lông mông

    Khung trần dạ cảm vầng mây tím

    Dáng biểu lòng yêu giọt nắng hồng

    Thả chiếc cần câu lùa sóng lặn

    Xa vời cánh Hạc lượn tầng không

           Minh Thuý Thành Nội

    Tháng 7/20/2022

    *

    BÃI VẮNG

    Bãi vắng tinh sương một lão ông

    Êm đềm thuyền cắm đậu bên sông

    Lăn tăn bóng đổ in dòng nước

    Lặng lẽ sào nghiêng lóe nắng hồng

    Kéo vó trầm ngâm đời sắc ảo

    Buông câu nghiền ngẫm biển sầu mông

    Đó đan thưa cá bơi lờ lững

    Lòng đã như chừng tấp bến không,

    Lê Mỹ Hoàn

      7/20/2022

    *

    THEO DÒNG

    Giữ nhà vui cháu,mới sinh ông*

    Nước mạch theo nguồn chảy với sông

    Tuổi lão chia tay thời khổ cực

    Tâm già đối mặt nỗi hoang mông

    Nhìn lên tóc đậm màu mây trắng

    Ngó xuống hồn phai sắc nắng hồng

    Những đóa hoa thơm vừa ngọt quả

    Vô thường lấy có thả vào không…

    Lý Đức Quỳnh

       20/7/2022

    *Mượn ý:…Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.

    *

    NGOÀI KIA

    Ngoài kia thấp thoáng một ngư ông

    Buông lái nghiêng mình ngắm dáng sông

    Rót giọt nắng vàng ,tia lấp lánh

    Đan màu ráng đỏ ,cảnh xa mông

    Nước chao khuấy động bầy cò trắng

    Gió thổi đong đưa cánh nhạn hồng

    Lao vút khoảng trời về cuối nẻo

    Để người khắc khoải với thinh không !

    PHƯỢNG HỒNG

    *

    LẠC CHỐN KHÔNG

    Thấp thoáng từ xa bóng lão ông,

    Thuyền xuôi đánh cá dọc bờ sông.

    Mắt nhìn chờ đợi đêm thanh vắng,

    Dạ ngóng buồn trông cá bến mông.

    Gió thổi vi vu khơi sóng bạc,

    Mây bay lờ lững chiếu tia hồng.

    Âm thầm chẳng thấy cần đong đẩy,

    Thơ thẩn hồn trầm lạc chốn không.

    HỒ NGUYỄN

      (20-7-2022)

    *

    BUÔNG

    Nước biếc trời thanh một lão ông

    Lơi chèo neo gió thả theo sông

    Đìu hiu bến vắng đò thưa khách

    Lác đác trên đê vạc ngó mông

    Chiều xuống chân mây viền sắc tím

    Hoàng hôn góc núi ửng tia hồng

    Chuông chùa ngân vọng… vang lời kệ

    Tịch tĩnh tâm buông, trú cõi Không

    Kiều Mộng Hà

    july 21st2022

    *

    BỒNG BỀNH

    Bồng bềnh sóng vỗ dáng thi ông

    Râu tóc bạc phơ thuyền lướt sông

    Thơ phú ngao du qua bến nước

    Sáo tiêu vi vút gợn sầu mông

    Giải khuây tâm sự đời chồng chất

    Xa tít tầng mây đượm vết hồng

    Cõi thế trớ trêu luôn giận dữ

    Khéo lo tránh khỏi giấc huyền không !…

     Yên Hà

    21/7/2022

    *

    ÔNG LÁI ĐÒ

    Thế sự bon chen chẳng có Ông

    Chiều neo thuyền nghỉ cạnh bờ sông

    Chân mây trải lụa, trời xanh biếc

    Mặt nước giăng tơ, cảnh vắng mông

    Bến đón, nào màng người chuốt lục

    Đò đưa, mặc kệ kẻ tô hồng

    Chuông chùa văng vẳng…khơi tâm đạo

    Lão trượng mỉm cười ngẫm: sắc, không!

    DUY ANH

    07/21/2022

    *

    HOÁ KHÔNG

    Đò đậu ven bờ có lão ông,

    Ưu tư lòng nghĩ đến non sông

    Thả cần câu cá hồn hiu hắt,

    Đưa mắt nhìn sông nước quạnh mông.

    Nhớ cảnh xưa đời luôn chói sáng,

    Còn ngày nay mộng chẳng đơm hồng !

    Trần duyên chợt nghĩ là hư ảo…

    Trời đất rồi ra cũng hoá không !

    Liêu Xuyên

    *

    CÓ MỘT ÔNG

    Thú thật …nhà này có một ông

    Dường như kiếp trước thuộc dòng sông

    Dong  buồm …chẳng ngại trời se lạnh

    Lướt sóng…nào lo cảnh quạnh mông

    Hạ đến…đem về xâu ghẹ bự

    Thu sang…bắt được giỏ rô hồng

    Đông về…lặng lẽ xem thời sự

    Mặc kệ cuộc đời tay trắng không !

    Thy Lệ Trang

    *

    BÌNH AN VÔ SỰ

    “Sắc sắc không không”

    Gác mái neo thuyền bóng lão ông

    Ngư nghề hưởng thú sống ven sông

    Đợi thời vũ vận nơi xa vắng

    Thả mộng phong vân chốn quạnh mông

    Tỉnh rượu chập chờn chiều ráng đỏ

    Say men thấp thoáng sớm mai hồng

    Bình an bủa lưới rong rêu biếc

    Vô sự giăng câu cá “sắc không” ?

    MAI XUÂN THANH

        July 22, 2022

    ***

  • Lê Tuấn,  Thơ,  Tùy Bút,  Văn

    Duyên Khởi – Hoa Cỏ Bên Đường

    Duyên Gặp Gỡ

    Hoa Cỏ Bên Đường

    Lê Tuấn

    Tôi đến tham dự một buổi ra mắt sách Hoa Cỏ Bên Đường tác giả là cựu nữ phóng viên chiến trường Kiều Mỹ Duyên, do Văn Thơ Lạc Việt tổ chức tại 70 W, Hedding thành phố San Jose Ngày 25 tháng 6, 2022.

    Lần này đến tham dự buổi ra mắt sách tôi đem theo cả máy quay phim và máy ảnh, vì tôi có ý định thực hiện một video clip cho buổi ra mắt sách hôm nay.

    Tôi vừa bước qua cổng chính đi vào hội trường, đã nhận thấy bên ngoài hành lang có dãy bàn với nhiều người đẹp trong tà áo dài, đang giới thiệu những quyển sách in thật đẹp.

    Hoa cỏ bên đường là quyển sách in hình màu, sách in khổ 6X9 dày 496 trang, đây là một quyển sách do nữ sĩ Phương Hoa và nhạc sĩ Thái Phạm thuộc ban in ấn của Văn Thơ Lạc Việt phụ trách phần layout và in ấn tại nhà in Lulu printing USA.

    Trên bích chương quảng cáo ra mắt sách, đã nêu rõ ý định của tác giả. Tất cả tiền bán sách đều dành cho việc từ thiện.

    Nhìn quanh hội trường tôi nhận thấy có nhiều ký giả nhà báo của các đài truyền hình địa phương San Jose, đến thực hiện phóng sự.

    Nhiều quan khách tên tuổi đến tham dự như: Giáo sư bác sĩ Trần Công Luyện, Thẩm phán Phan Quang Tuệ, Linh mục Trần Đình Thảo, Luật sư Nguyễn Quốc Luân và còn nhiều nữa mà tôi không nhớ hết tên. Diễn giả giới thiệu sách là nhà hoạt động văn hoá Văn thi sĩ Quốc Nam đến từ Seattle.

    Buổi lễ ra mắt sách được ban tổ chức cho xen kẽ những tiết mục văn nghệ do các cháu thiếu nhi của thành phố San Jose trình bày, cùng với ca sĩ địa phương.

    Với máy quay phim trên tay, tôi đã thâu hình gần như toàn bộ buổi lễ ra mắt sách, khi về nhà tôi đã edit và ráp nối từng đoạn phim để cố gắng thu ngắn lại, những đoạn video clip sau khi hoàn tất và chia sẻ trên Youtube nó vẫn có chiều dài 56 phút.

    Mở đầu cho đoạn video clip là khung cảnh hành lang với dãy bàn các cô trong tà áo dài đang giới thiệu sách cho khách mua, background cho hình ảnh này là một dòng nhạc nhẹ, tôi đã đọc bài thơ ngẫu hứng với chủ đề

    Hoa Cỏ Bên Đường

    Hoa cỏ mọc bên đường

    Khép nép mà dễ thương

    Hoa mang đầy sức sống

    Theo tình sử quê hương.

     

    Hoa không ngại gió sương

    Mọc trong cõi vô thường

    Từ ngàn trùng sóng vỗ

    Xông pha mọi chiến trường.

     

    Hoa kết nối trăm năm

    Dòng quân sử can trường

    Bài phóng sự ghi dấu

    Nữ phóng viên chiến trường.

    Lê Tuấn

    Viết tặng tác phẩm “Hoa cỏ bên đường” của

    Nữ phóng viên chiến trường Kiều Mỹ Duyên.

     

    Thật ra tôi không hề quen biết chị Kiều Mỹ Duyên, tôi chỉ nghe tên tuổi của

    chị như là một cựu nữ phóng viên chiến trường thế thôi. Hôm nay tôi đến tham dự và có duyên gặp gỡ tác giả Kiều MỸ Duyên, bên trong hội trường chi ngồi hàng ghế trước mặt tôi, tôi ngồi phía sau với máy thu hình, tôi nhận thấy có nhiều người đến tặng chị những món quà.

    Sẵn trong tay tôi đang cầm tuyển tập Lặng Im Tiếng Đời, đây là quyển sách thứ 6 tôi mới in, tôi ký tặng chị tập thơ.

    Tôi nói xin gửi tặng chị tập thơ, vừa nói vừa đưa sách tặng chị

    Chị nói lời cảm ơn và bỏ vào túi xách, ngay khi ấy chị không biết tôi, vì đây là lần đầu đối diện, tôi tặng chị tập thơ bời vì tôi biết chị là người viết sách và sẽ đọc sách chỉ có thế thôi.

    Tôi chợt nhớ lại một câu nói của nhà hoạt động, người Ấn Độ đã phong thánh cho ông, đó là Mahatma Gandhi ông đã nói:

    Không cần phải đốt sách để phá hủy một nền văn hóa. Chỉ cần buộc người ta ngừng đọc mà thôi.

    You don’t have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them.”

    Dường như tôi nhận ra một sự đồng cảm với chị Kiều Mỹ Duyên đó là, chúng tôi là người viết sách và vẫn còn mang một hoài bão, hãy phổ biến cho nhiều độc giả cùng đọc sách.

    Video Clip buổi ra mắt sách Hoa Cỏ Bên Đường sau khi chia sẻ trên Youtube được nhiều người đón nhận, tôi forward video này gửi đến email của chị, và chị đã đón nhận cùng lời cám ơn.

    Phải chăng đây là một cơ duyên, hay một sự khởi đầu quen biết để sau này đi đến gần gũi hơn. Tôi lại liên tưởng đến Thuyết duyên khởi của đạo Phật.

    Mọi hiện hữu trong thế giới này đều vận hành theo nguyên tắc của sự tương quan lẫn nhau. Sự vật, hiện tượng này sinh khởi do hội đủ điều kiện hỗ trợ cho sự sinh khởi ấy.

    Do cái này có mặt, cái kia có mặt đã kết hợp lại thành một mối tương quan lẫn nhau. Chắc có lẽ sự quen biết của tôi với Chị Kiều Mỹ Duyên bắt đầu từ đó.

    Về sau này tôi gọi chị là chị Hai, vì trong câu chuyện trên phone chị cho biết chị có một người em trai còn lớn hơn tôi vài tuổi, do đó tôi gọi chị là chị Hai, và chúng tôi trở nên gần gũi hơn, email qua lại rồi chị nói với tôi:

    Tập thơ lặng im tiếng đời của lê tuấn tặng, chị rất trân trọng, và chị đem vào văn phòng, có nhiều người mượn đọc và hỏi mua sách. Chị nói đây là sách tặng không bán. Và chị ngỏ ý muốn tôi gửi tất cả những tác phẩm của tôi cho chị.

    Tôi đồng ý và đóng gói toàn bộ sách của tôi bao gồm 6 quyển, một quyển đã tặng trước và lần này là 5 quyển sách đóng gói đem ra xe đò Hoàng gửi đến Orange County, tôi nhắn tin và chị đã ra bến xe đò Hoàng nhận sách trong ngày.

    Chị nhắn tin qua email, hãy đến nhà anh Chinh Nguyên để nhận hai quyển sách chị gửi tặng đó là Hoa Cỏ Bên Đường và Cảm nhận vế tuyển tập Hoa cỏ bên đường, tôi đã đến nhà Chinh Nguyên nhận sách.

    Chị còn nhắn nhủ tôi hãy viết thêm cho chị đọc. Vâng thưa chị em sẽ tiếp tục viết sách và sẽ ấn hành quyển thứ 7 với chủ đề Tuyển tập truyện ngắn Tháng Ba Hoa Táo trong năm tới.

    Sau khi đọc xong tác phẩm Hoa cỏ bên đường tôi nhận thấy đây là một sự tổng hợp những phóng sự, tuỳ bút mà ký giả Kiếu Mỹ Duyên đã ghi nhận trên khắp các nẻo đường đi tham dự các đại hội, hay gặp gỡ phỏng vấn những nhân vật nổi tiếng trên thế giới.

    Tôi phải nể phục tác giả đã chọn một chủ đề rất phù hợp với tác phẩm, bởi vì tất cả những bài viết ngắn dài trong tác phẩm chính là những loài hoa cỏ mọc bên đường, chính là những mảnh vụn trên con đường làm phóng sự.

    Tôi chợt nhớ đến một bài thơ tôi đã viết trong tác phẩm Triết Học và Thiền. Bài thơ với tựa đề Loài hoa dại bên đường, tôi xin trích dẫn vài đoạn.

    Cảm ơn hoa đã vì ta nở

    Ta muốn nâng đất cao hơn tí nữa

    Và khéo mây trời xuống thấp cho gần

    Nhìn tận mắt em

    Loài hoa khờ dại

    Trong hố thẳm nào đen tối

    Mà sao che dấu

    Cả hồn ta.

    Lê Tuấn

    “Trích đoạn bài thơ Hoa cỏ dại bên đường”.

    Trong tuyển tập HCBĐ chị đã viết.

    “Làm truyền thông đi đâu cũng viết được. Lên rừng xuống biển, đi đâu tôi cũng viết được, nhưng phải biết quan sát tỉ mỉ”

    Theo như quan niệm của chị Kiều Mỹ Duyên chị đã viết trong tác phẩm:

    “Tôi không viết truyện mơ mộng lên cung trăng, tôi viết về người thật việc thật, viết hoài không hết, cần gì bay lên trời, hay bay lên cung trăng thăm chị Hằng.

    “Tôi sống thật, thương thì nói là thương, ghét ai thì im lặng, không nói ghét, vì người nào cũng có điểm dễ thương của họ. Họ không thích mình vì mình không khéo léo thế thôi.”

    Vẫn là những bài viết, những dòng chữ, chị đã viết trong tác phẩm HCBĐ

    tôi rất thích quan niệm sống của chị, quan niệm này rất gần gũi với quan niệm của cá nhân tôi.

    Chị đã viết:

    Sống lạc quan đời sống sẽ đẹp hơn. Hãy yêu thương, yêu người, yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu tiếng chim hót líu lo trong vườn buổi sáng, yêu những cành đào, cành mai rung rinh trong gió thì lòng mình sẽ thanh thản hơn nhẹ nhàng hơn. Đâu phải giàu có mới hạnh phúc.”

    Quan niệm của chị theo đúng với phong cách của một phóng viên, viết về người thật việc thật. Chính vì thế tên tuổi của chị đã trở nên một ngôi sao sáng trong ngành báo chí và phóng viên chiến trường.

    Tôi đang viết về một người rất nổi tiếng trong giới truyền thông, mà không biết gì về tiểu sử của chị, thì cũng uổng phí. Bởi vì Chị Kiều Mỹ Duyên là một điển hình. Một sự nỗ lực vượt qua chính mình, sự nghiệp của chị đã để lại nhiều cảm hứng cho các thế hệ trẻ sau này.

    Tôi xin phép chị để giới thiệu cho độc giả biết đôi nét về tiểu sử của tác giả Kiều Mỹ Duyên.

    Tên thật là Nguyễn Thị An. Bút hiệu Kiều Mỹ Duyên. Danh tiếng của chị rất quen thuộc và nổi tiếng trong giới báo chí Việt Nam trước năm 1975. Nổi tiếng là một phóng viên chiến trường gan dạ và xuất sắc trong chiến tranh Việt Nam chống cộng sản hơn 20 năm, trên khắp chiến trường, trên khắp bốn vùng chiến thuật.

    Chị cộng tác với nhiều tờ báo ở Sài Gòn như nhật báo Hoà Bình, Công Luận, Trắng Đen.

    Năm 1960 chị KMD được học bổng sang Úc (Australia) theo học ngành báo chí. Trở về Sài Gòn, từ năm 1964 chị KMD chuyên viết phóng sự về xã hội và chiến trường cho nhiều tờ báo. Chị KMD phụ trách chương mục Người Yêu Của Lính và Thương Người Hậu Phương trên tờ báo Công Luận.

    Chị KMD có một ý chí phấn đấu mãnh liệt, chị luôn nỗ lực vượt qua chính mình. Chị không chấp nhận theo thuyết Định Mệnh An Bài, chị vượt qua mọi định mệnh của đời sống để tự quyết định lấy số phận của chính mình.

    Chị đã viết:

    “Bỏ lại sau lưng những người thân yêu, cha mẹ anh em, bà con và tất cả người thân, tôi vượt biên một mình cùng với bằng hữu, tôi trên chiếc thuyền mong manh chở 47 người, người lớn và trẻ con, được tàu Mỹ cứu mạng định cư ở California”

    Năm 1976, chị KMD vượt biên và định cư tại tiểu bang California, Hoa Kỳ.

    Năm 1982, bà tốt nghiệp Báo Chí, Chính Trị và Địa Ốc tại California State University of Fullerton.

    Chị đã viết:

    Tôi chờ đợi hơn 10 năm, mẹ và em tôi mới được định cư tại Hoa Kỳ. Sau này Mẹ tôi và em gái có nhà riêng ở Little Sài Gòn, đi bộ ra Bolsa và Magnolia.”

    Chị KMD không viết về tiểu sử của chính mình, chỉ thoáng qua một vài đoạn nằm rải rác trong các bài viết của chị.

    Trong bài viết Tình Mẹ Tuyệt Vời, trang 326 chị đã viết:

    Tôi có 4 chị em gái, chết hai còn lại một em và tôi. Sau này mẹ tôi sinh được một đứa con trai. Em trai của tôi rất thông minh, thích binh chủng không quân, nên sau này vào không quân được du học ở Mỹ 2 lần sửa máy bay F5. Em trai tôi cưới vợ làm nghề dạy học và sinh được 2 con, một trai một gái. Đứa con trai đầu lòng của em tôi, mẹ tôi nâng niu như trứng.”

    Tôi đọc tiếp phần sau thì được biết người cháu trai của chị là Nguyễn Hưng.

    Bây giờ Hưng Nguyễn đỗ tiến sĩ Kinh tế tại Los Angeles Hoa Kỳ. Cháu Hưng Nguyên đã đem lại niềm tự hào cho gia đình.

    Tóm lại tiểu sử của chị vắn tắt chỉ vài nét như thế. Tuy nhiên chị viết rất nhiều về công việc kinh doanh địa ốc, cùng với việc làm từ thiên mà chị đã thực hiện.

    Người ta thấy. Sau một ngày miệt mài làm việc ở văn phòng địa ốc Ana Funding, góc đường Euclid – Westminster, thành phố Westminster, với vai trò broker có dưới tay hàng chục nhân viên địa ốc, tối tối người ta lại thấy bà đi thoăn thoắt trong các hội nghị, phòng họp, cầm micro phỏng vấn, trò chuyện, chụp ảnh để làm phóng sự, bản tin cho đài truyền hình…

    Những tác phẩm của Kiều Mỹ Duyên phải nhắc đến tác Phẩm (Chinh Chiến Điêu Linh). Theo như tác giả cho biết, những trang bút ký viết tay hay đánh máy mất hết rồi, tác giả sao lục lại ở thư viện quốc hội Hoa Kỳ và cho xuất bản năm 1994 tác phẩm Chinh Chiến Điêu Linh.

    Tác phẩm Chinh Chiến Điêu Linh của Kiều Mỹ Duyên, là cách nhìn của một phóng viên chiến trường, đã nhìn một cách trực diện vào cuộc chiến qua chiến hào của các tiền đồn Địa Phương Quân, mà qua nhiều hình ảnh còn lưu lại, người lính Địa phương Quân hay Nghĩa Quân, cầm súng đứng dưới chiến hào mà người vợ bồng con vẫn đứng nép mình ngay bên cạnh.

    Hay cuộc chiến của đoàn quân mà nữ phóng viên chiến trường Kiều Mỹ Duyên tham dự, bị vây hãm nơi chiến tuyến bởi các sư đoàn của quân cộng sản bắc Việt như:  Sư Đoàn 3 Sao Vàng, Sư Đoàn 304 và 308, trong những trận địa chiến bị pháo kích như mưa bởi những họng đại bác của Trung Đoàn Pháo 38, bởi những dàn phóng của Trung Đoàn Tên Lửa 84. Hay những dàn tên lửa 122 ly của cộng quân bắc Việt.

    Đọc Chinh Chiến Điêu Linh như nhìn lại toàn cảnh cuộc chiến khốc liệt, khi bắt đầu là mùa hè đỏ lửa 1972.

    Một vài trích đoạn trong CCĐL:

    “Mùi máu tươi trong hàng cây khuynh diệp”bắt đẩu bằng kinh nghiệm và trực giác.

    “trong sự yên tĩnh của hôm nay, hình như người chiến sĩ đang chờ đợi một cái gì đó sẽ xảy ra.. Chỉ có ngư ông mới nhìn thấy những luồng sóng ngầm dưới lòng biển cả. Chỉ có những người lính chiến đầy kinh nghiệm mới có trực giác bén nhạy trước những toan tính của địch quân… và sự chờ đợi đã đến”

    Không thể kết luận được tác phẩm Chinh Chiến Điêu Linh là một thiên phóng sự đầy máu và nước mắt, mà nó chính là bản anh hùng ca của Quân Lực VNCH.

    Đọc qua tác phẩm này tôi lại chợt nhớ đến câu chuyện ngắn mà tôi đã viết chủ đề Trận Chiến Lấn Đất 1972, có in trong tác phẩm Đội Đập Đá Trại 6 Nghệ Tĩnh. Trong đó có bài thơ kết thúc câu chuyện, tôi xin mượn để viết ra đây:

    Trăm năm trong cõi vô thường

    Ta ngồi viết lại đoạn trường vô thanh

    Cho người chiến sĩ vô danh

    Bước vào huyền thoại hoá thành vĩ nhân.

    Lê Tuấn

    Cho đến hôm nay khi viết bài cảm nghĩ này tôi đã lấy chủ đề Duyên Khởi là mạnh đề chính và Hoa Cỏ Bên Đường là mạnh đề phụ bổ túc cho Duyên Khởi, để từ đó tôi và chị Kiều Mỹ Duyên mới quen biết nhau, tôi vẫn nghĩ rằng tình cảm này sẽ trở nên gần gũi hơn.

    Chị đã mời tôi hãy cùng với vợ chồng Văn thi sĩ Chinh Nguyên đến tham dự buổi lễ mừng 15 năm thành lập đài truyền hình VNATV tổ chức tại Orange County.

    Thật ra tôi và nhà thơ Chinh Nguyên cùng với Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng đã thực hiện rất nhiều Video clips talk show cho đài VNATV. Những video clips mạn đàm về những áng văn thơ nổi tiếng của VN, như Truyện Kiều Nguyễn Du, Chinh Phụ Ngâm, Cung oán ngâm khúc, Hồ Xuân Hương, Lục Vân Tiên, Bích Câu Kỳ Ngộ, Tỳ bà Hành, Bà Huyện Thanh Quan và rất nhiều những mạn đàm về thời sự, hay những buổi giới thiệu tác giả và những sách mới ấn hành. Vân vân.

    Cho đến thời gian gần đây tôi mới ngừng thực hiện chương trình này vì lý do bận rộn với con cháu, tất cả đều ở xa cách nhau cả tiếng lái xe, do đó không tiện việc đi lại.

    Để kết luận. Tôi xin mượn ý tưởng một chút triết lý về duyên khởi. Một sự vật, một hiện tượng mới nảy sinh trong môi trường thân thiện thì sẽ hội đủ điều kiện hỗ trợ cho sự hình thành một mối dây liên lạc bền vững.

     

    Lê Tuấn

    Viết Xong.  July 16, 2022

  • Thái Lan,  Văn

    Tùy Bút: MỘT MÙA XUÂN RẤT XA…- Thái Nữ Lan 

    MỘT MÙA XUÂN RẤT XA…    –  

    Thương tặng các bạn sinh viên Huế, và các bạn cư xá Jeanne d’Arc & Xavier của thời vàng son dấu yêu-

    Một ngày mùa hè …

     Ba chở tôi đến phi trường Phú Bài, Huế, đón cậu em từ Dalat ra để giúp Ba và tôi trong việc làm ăn của Ba. Me và ba em kia vẫn đi làm đi học ở xứ sở sương mù… Gặp lại em Vũ sau nhiều tháng xa cách, thật mừng rỡ… Lúc xưa cả gia đình Ba Me và sáu người con đều quây quần, rồi chị và anh lớn đi xa để tiếp tục việc học, còn lại bốn chị em rất thân nhau. Ôi bao nhiêu kỷ niệm…

    Mới mấy năm nay Ba phải ra Cố đô để làm việc, một mình tôi đổi “cấp độ” từ nhỏ đến lớn, bi chừ là “Học Đại” rồi, nên theo Ba được.  

    Em Vũ  mang theo cây đàn tranh cho tôi. Tôi mới học được vài tuần ở Tỳ Bà Viện. Khệ nệ cầm cây đàn, tôi băng qua phòng chờ ở phi trường, rồi lần ra bên ngoài chỗ để xe…Chợt có hai anh lái tàu bay từ bên phi trường quân sự tiến đến, hỏi chuyện…

    Có lẽ vì nhìn thấy một con bé với vẻ mặt chẳng có gì là nghệ sĩ mà lại đi chơi loại đàn xưa và rất khó này rồi hai “ông ” ấy tò mò chăng?

     Biết chúng tôi ở xứ ngàn thông, các anh rất thích, họ là người dân xứ biển Nhatrang hiền hòa, và thường bay lên đó, họ rất thích thành phố buồn của chúng tôi…

    Vài tuần sau, đến lúc nhập học, em tôi phải trở về Dalat, còn tôi thì vào cư xá “để học cho yên” – Ba bảo như rứa…

    Vài ngày sau khi đi học, một anh tài xế máy bay ấy, anh Quang, đã đến cư xá và xin “sơ”(soeur) trông coi phòng khách để gặp tôi.

    Tôi chưa gặp anh Quang được, vì tôi chưa thưa chuyện với Ba Me tôi. Anh ấy ra về… Vài ngày sau, tôi nhận được lá thư của anh gởi từ Nhatrang… Tôi đã đưa thư cho Ba đọc, (tự tôi cảm thấy cần cho Ba đọc, vì Ba đâu có cấm cản chi mô?) Ba nói lời thư có vẻ chân thành, nhưng ” chưa biết con ạ, các anh ấy thường rất bay bướm”,…nếu anh ấy muốn gặp con ở cư xá, con có thể nói chuyện (vì Ba biết trong phòng khách, luôn có sơ làm việc giấy tờ), và con có thể trả lời thư…

     Nhiều tháng trôi qua… Anh thường có dịp phải bay ra Huế, có lần anh và bạn đều lái trực thăng vòng vòng quanh sân trường của tôi. Trời ơi! Cứ bay vần vũ quanh quanh như rứa…Thầy Cô và bạn bè không hiểu chuyện gì đang xảy ra..! Chỉ có Kim Thoa & Ngọc Quỳnh ở cùng phòng cư xá với tôi biết là ai thôi :  “Răng mà anh nớ gan cùng mình ghê luôn”!

     Rồi còn đi với bạn để đón tôi lúc tan trường… tôi luôn đi với cô bạn thân Kim Thoa, anh ấy cũng luôn có thêm một người bạn đi cùng…

    Muốn độn thổ luôn, trời ạ! Hai ông lính thuộc loại dữ dằn, mặc áo bay, đi kèm với hai con bé “chưa lớn”, làm chúng vừa đi vừa nép vào nhau, che mặt mình không hết, cả trường ào ra như ong vỡ tổ,…ai đi xe ra cũng ngoảnh mặt lại nhìn xem hai “con” nào mà ghê gớm rứa hè..?

    Thôi thôi bước đi cho nhanh cho rồi…làm hai ông phải la lên:  “Hai cô làm gì mà như bị ma đuổi vậy?”

    Tôi phải cằn nhằn: -” Sao anh muốn đến trường mà không nói trước, để bây giờ … làm sao mà trốn đây? Ngày mai vô lớp học thì chịu sao cho thấu?

    – Thì Thanh Lan cứ bảo là: ông anh ở Nhatrang đi công tác ra thăm em thôi mà, có gì nghiêm trọng đâu?…”

    Sau này tôi mới biết, anh ấy lúc nào cũng vậy, những việc gì nguy hiểm, kinh khủng…tất cả đối với anh đều … nhẹ “như lông hồng”… Có lúc thì tốt, nhưng có khi lại không tốt đâu nhe!

    Ngày thường thì chúng tôi vừa rảo bước vừa nhìn ngắm cảnh thơ mộng của kinh đô các “mệ” ngày xưa,  nhìn qua con sông với cầu Trường Tiền nên thơ, hàng cây Phượng vỹ đến mùa hè nở đỏ rực cả một góc trời…ở xa kia là núi Ngự Bình,.. Ngắm hoài không chán.. Nhưng hôm nay hai đứa chỉ cúi mặt mà chạy, không dám nhìn ngang ngửa chi hết…

     Hai anh chỉ đưa chúng tôi về cư xá, vì chúng tôi không đi ra quán uống nước với các anh, xứ Huế rất cổ kính, và cổ hủ về phong tục, nên chúng tôi rất ngại…

     – Thanh Lan, mai tụi anh lại phải bay đi Pleiku rồi, cho anh nói chuyện với Lan một chút nhé? Bạn tôi lên phòng, anh Hoàng, bạn của anh Quang bảo anh ấy ra quán càphê gần đó đợi …Anh Quang vô phòng khách nói chuyện với tôi một chút, anh hỏi thăm tôi về việc học, về các em,.. rồi dặn tôi nhớ trả lời thư cho anh, khi nào mùa hè tôi về xứ sương mù, có dịp anh sẽ bay lên để thăm Me và các em, rồi sang năm học tới anh sẽ ra đây thăm Ba tôi.

    Sang hè, khi tôi về Dalat nghỉ vài tuần, anh ấy  đến nhà và nói chuyện với  Me và các em tôi. Có một hôm, em tôi mới đi lấy hình chụp cả nhà về, và để trên bàn phòng khách, tôi chưa kịp cất, anh ấy đến, và muốn xem. Anh chọn một hình chân dung của tôi, và nói rằng kỳ này các anh sẽ đi Bảo Lộc, sẽ có giờ rảnh, anh muốn vẽ hình tôi…Ít lâu sau tôi nhận được một bức hình vẽ bằng bút chì rất đẹp,..tôi lại biết thêm một tài năng của anh ấy…

    Sau này anh vẽ hình các con, chắc là tuyệt lắm nhỉ?  (ôi, lại mơ mộng hão huyền nữa rồi, cô bé ạ)

    Anh đưa cho tôi tập thơ “Ta Chờ Em Từ Ba Mươi Năm” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương…

    Không biết lúc đó anh bao nhiêu tuổi nhỉ?

    1975…

    Vài tháng thư từ, độ này anh không bay ra Huế nữa…

    Tháng 3… Người dân Huế vẫn chưa hết đau thương với Mậu Thân 1968, nay lại lảo đảo chồng chất trên những chiếc xe đò lớn nhỏ để vô Đà Nẵng, có xe traction ngày thường chỉ chở được 5 người, nay chất thành 8, 9, 10 người,.. rồi những xe minivans thì nhét như cá hộp…

     Vô Đà Nẵng cũng không yên,… lại ùa nhau ra phi trường, ra bến cảng … Tôi cùng gia đình người bác ruột lênh đênh trên biển cả một tuần,  (Ba đã đi nước ngoài vì công việc, sắp về lại). Suốt một tuần lễ, lênh đênh cũng mây nước, tôi không biết giờ này Ba Me tôi ở đâu, các anh chị em có được bình an không…Bảy ngày , mà dài như bảy năm, buổi tối dài lê thê, không thể nào chớp mắt với sóng biển dập dềnh, ban ngày thì khô rát, nóng cháy….. rồi anh Quang ơi, gia đình anh có được an toàn không, anh đang ở đâu, cầu mong sao anh làm tròn nhiệm vụ người trai thời loạn, như bậc cha anh, nhe anh,..dù cho có hy sinh cũng không màng, anh ơi,..

    Xà lan cặp bến Vũng Tàu… Rồi lên Saigon…

    Đến được nhà anh chị tôi, thật mừng rỡ biết bao khi gặp lại gia đình anh chị cùng Ba tôi vừa mới trở về được vài hôm, và Me cùng các em đang đi xe đò từ Dalat xuống đây..

    Một buổi trưa, Hòn Ngọc Viễn Đông, trời nóng như thiêu… em Vũ  , – lại cũng cậu em “xe tơ” này, – chở tôi đi Honda trên đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận, đến đường ray xe lửa, đèn đỏ…nhìn qua con đường đối diện,… thấy anh Quang!

     Ôi, phải chăng đây là ý trời…? Nhiều tuần nay không được tin tức… nay được gặp lại anh…

    Buổi tối, cuối tháng 4, anh Quang đến nhà anh tôi ở Quận 5,… gặp BaMe tôi (lúc đó cả gia đình đều về nhà anh Chung của tôi), và xin cho tôi được bay đi đảo Guam, xứ Cờ Hoa, với anh cùng đồng đội. Tôi không chịu, vì đi như vậy, biết có gặp lại Cha Mẹ anh chị em được không, với lại đã cưới hỏi gì đâu…?

    Vài tháng sau… Gia đình anh, sau khi ở tạm nhà bà con ở Saigon ít lâu, đã trở về miền Thùy Dương..

    Tôi theo Ba về Nhatrang để thăm người Cô ruột, chị của Ba.

    Tôi được đi ra biển với anh, một buổi chiều…sóng thật lớn…

    Suốt bao nhiêu tháng quen nhau, đây là lần đầu tiên tôi đi ra ngoài với anh..

    Tôi luôn yêu thương thành phố biển này, ngày xưa cả gia đình thường được Ba chở đi nghỉ hè, cả mấy chị em tôi đều rất mê biển, cát, và sóng… Cả anh và tôi đùa nghịch với cát, nắm cát vào tay, bỏ vào tay đứa kia, nhưng không giữ được, chúng lại tuôn ra…Đi dạo, rồi chạy đuổi nhau ở mép biển, vừa nước vừa cát,..ôi hạnh phúc làm sao…! Đứng nhìn mặt trời lặn, sao đáng yêu quá, tôi luôn yêu cảnh mặt trời mọc hoặc lặn, nhưng sao hôm nay đẹp lạ thường…  “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ”, nhưng Người vui thì cảnh lại quá thơ mộng…

    Hạnh phúc ơi…!

    Lúc đưa tôi về nhà Cô tôi, anh đưa tôi một tấm thiệp, hình bầu trời đầy sao, và bên dưới là một cô bé đang nhìn  lên  …  

    Bên trong

    Người là vì sao nhỏ bé

    Ta mãi ước cho lòng làm bầu trời xanh xanh

    Người về lòng ta thương nh

    Ta khẽ hỏi đưa người hay thầm người đưa ta…”  *(1)

    Hôm sau, anh đến nhà thăm Cô và Ba tôi… và xin phép đưa tôi đi dạo một vòng..

    Những đường phố xứ biển quá đẹp, với từng hàng cây Phượng vỹ, vẫn còn đỏ rực hoa mùa hè muộn, cây trứng cá với trái nhỏ đỏ li ti thật  xinh  và những hàng  dương liễu dọc theo bờ biển, thơ mộng làm sao…  

    Anh đưa tôi lên tượng Phật Bà thật uy nghi trên đỉnh đồi Trại Thủy, đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống thành phố thật đẹp… – đã in trong trí tôi bao nhiêu năm nay, bây giờ mỗi khi ngủ tôi vẫn thường nhớ lại cảnh tượng nên thơ này – Tôi rất thích tìm những cọng hoa mắc  cỡ ( Trinh nữ), rồi đụng vào lá cho chúng khép lại, và nói với anh: – “Anh ơi, mai sau anh trồng hoa mắc cỡ phía sau nhà mình để em chơi như thế này nhé anh?” Anh cười, chắc có lẽ chịu thua cái con bé lớn mà chẳng lớn chi hết này!

    Sau khi đi một vòng, đến dưới chân bức tượng Phật, anh cầm tay tôi, nhìn vào mắt tôi thật lâu, và nói

    – “Bé chờ anh nhé, bé ơi?”

    Tôi thật nghẹn ngào, mãi lúc sau mới nói được: -“Em sẽ là Hòn Vọng Phu, nếu anh không trở về…”

    ………………..

    Phút giây hạnh phúc như bóng câu qua cửa sổ..

    Anh vuốt tóc em,  một lần cuối, một lần cuối cùng, rồi thôi….

    Anh hốt trăng thanh, trên áo em xanh, một lần cuối, như những lần đó xa xôi“….*(2) 

    Đến ngày Ba và tôi trở về xứ Ngàn Hoa, còn anh thì đi …biền biệt… đến bao giờ?

    …………….

    Trại tù… 

    Anh viết : “Mỗi kỳ trăng tròn, anh thường nhìn lên ánh trăng, để tìm ánh mắt em phản chiếu trong đó, Ti ơi…Anh nhớ em quay quắt… nhớ đôi mắt thật buồn của em, bé ơi  …”

    Thăm nuôi…

     “Em ngậm ngùi khóc thương

    Thương anh đợi mòn mỏi

    Hờn căm ngút đoạn trường– ” *(3)

    …………………

    …Ngày anh Trở về…Mừng mừng tủi tủi…

    Kể làm sao cho xiết…

    Rồi ngày được định cư ở bến bờ tự do…

    Ba ơi, cái ông tài xế máy bay ni không có bay bướm chi hết, Ba à…

    Bao nhiêu mùa Xuân đã đi qua… Anh và em đều mong ước một mùa Xuân  được trở về, để đến  những nơi chốn của thuở vàng son ấy…

    &&&&&&&&&&&&

    Đất Mẹ, ngày trở về, để đón mùa Xuân như ước mơ, nhưng  chỉ có các con và em … Anh đã ra đi…

    Saigon, Dalat, Huế…Và sân bay Phú Bài.

    Tất cả đã không còn như xưa… Ngôi trường mến yêu, những con đường thân thương …

    Nhưng đối với anh và em, vẫn thật đáng quý, những nơi tràn ngập kỷ niệm dấu yêu, kể cho con nghe… Thương quý nhưng nghẹn ngào làm sao…

    Và Nhatrang, sóng biển và cát….

    Hôm nay ngày rằm cuối năm, trăng sáng vằng vặc, em lại nhìn lên ánh trăng, tìm đôi mắt của anh, như ngày xưa mắt anh và em nhìn nhau trên đó  anh ơi …

    Ngày mai em sẽ đưa các con lên đồi Trại Thủy, nơi có tượng Phật Bà, và kể cho con nghe về cái ngày xa xưa yêu dấu ấy, anh ơi…Bây giờ em không thể làm Hòn Vọng Phu để chờ anh được nữa rồi, em còn bổn phận với con cháu..

    Anh đang ở đâu hở anh

    Anh Quang ơi, từ nơi xa ấy, anh có cùng mẹ con em đi thăm lại những con đường có lá me bay, những đồi thông con suối, không anh…

    Một mùa Xuân trọn vẹn của anh và em, sẽ không bao giờ có được…

    ……………….

    Trong phòng của mình, vẫn còn bức chân dung ngày xưa anh đã họa lại hình em đó, Quang ơi… Và chiếc áo bay ngày nào của anh vẫn ở bên em…

    Những tưởng yêu thương đến trọn kiếp

    Mong sẽ trăm năm cùng bạc đầu

    ——

    Vầng trăng xưa, ngươi có nhớ gì không?- 

    Vũ Hoàng Chương- Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm

    TháiLan/nữlan-Dallas- 2016

    ———————-

    1/–  Hai Vì Sao Lạc– Anh Việt Thu

    2/- Một Lần Cuối– Hoàng Thi Thơ

    3/-  Hai Hàng Cây So Đũa -Thơ: Nguyên Huy- Nhạc: Trọng Minh

  • Cao Mỵ Nhân,  Thơ,  Văn

    CHÙM THƠ Cao Mỵ Nhân:

    BUỔI ĐÓ.    CAO MỴ NHÂN

    *

    Buổi đó người đi vừa mất hút

    Tôi về thương nhớ ngập tràn hơn

    Một năm rồi nhỉ đèn hoa trút

    Cây lá vàng thêm sắc tủi hờn

    *

    Kiếm tập thơ tình trên nắp tủ

    Chưa tan dòng chữ nét yêu ma

    Lượn lờ tình tự phương trời cũ

    Nhân ảnh phiêu lưu giữa nắng tà

    *

    Kẽ lược buồn vương phai sợi tóc

    Hay là lụa bạch lỗi khăn tơ

    Hỏi lòng trăm lượt hình như khóc

    Lệ thấm vai người chắc đã khô

    *

    Giây phút hoang mê sầu tưởng niệm

    Cúi mình nghe nước mắt tuôn rơi

    Bài ca nghẹn cuối đường đưa tiễn 

    Chẳng có ai chia sẻ một lời …

    *

     Hawthorne  11 – 7 – 2022

            CAO MỴ NHÂN 

    VÕNG MÊ.    CAO MỴ NHÂN 

    *

    Sao cườm lại mọc mắt tôi

    Xanh mơ như hạt mân côi vỗ về

    Đưa cườm ra khỏi võng mê

    Mắt tôi lóng lánh nguồn tê dại khờ 

    *

    Cườm ơi, ta dấu mộng mơ

    Đời không trang điểm ngoài thơ trong lành 

    Lúc nào mắt cũng long lanh

    Trao tia nhìn lạ cho anh buổi đầu 

    *

    Hôm nay ánh mắt muộn sầu 

    Chiếu ngang tầm ngó thương nhau bóng tà

    Thì cườm lăn khỏi đời ta 

    Nên hoa nắng muộn vẫn là nụ xuân

    *

    Thôi đừng nhỏ lệ cam tâm

    Chắt chiu ngày tháng âm thầm yêu thương 

    Mắt giờ trong vắt hồ gương

    Anh như bơi giữa sắc hương tuyệt cùng…

    *

           CAO MỴ NHÂN 

    MẦU NẮNG THUỶ CHUNG.    CAO MỴ NHÂN 

    *

    Thành San vào hạ nắng tơ

    Áo em anh viết đầy thơ mùa hè 

    Mùa không phượng vĩ đỏ kè

    Mặt trời rực lửa gọi về phương đông

    *

    Chúng mình tàn kiếp lưu vong

    Tha hương, tị nạn vẫn cùng biển khơi

    Thành San không thốt một lời

    Sóng trùng dương nối cuộc chơi điêu tàn

    *

    Bên kia giải đất Việt Nam 

    Mờ phai ngày tháng son vàng của anh

    Núi mùa xuân tựa quách thành 

    Chim quyên nhỏ lệ cũng đành thôi em 

    *

    Ở đây nghe nhớ nhung mềm 

    Tưởng như chưa thấy nỗi niềm quạnh đau

    Mi thơ nước mắt đọng sầu

    Quí yêu từng mảnh nắng mầu thuỷ chung…

    *

    Hawthorne  26 – 6 – 2022

             CAO MỴ NHÂN 

    ĐÔI BÀN TAY.    CAO MỴ NHÂN 

    *

    Ép chặt đôi bàn tay

    Cho không gian tan loãng

    Tương lai và dĩ vãng

    Hoà hội tại nơi đây

    *

    Ôm một giấc tỉnh say

    Đôi bàn tay hoang loạn

    Mở toang ngày tháng hạn

    Hốt hoảng đỡ mây về

    *

    Anh cuốn mảnh trăng thề

    Dấu vào tim rạn vỡ

    Ôi cuộc tình dĩ lỡ 

    Cả chuyến đò qua sông

    *

    Trời đất càng mênh mông

    Đêm rơi trên tóc rối

    Đôi bàn tay chới với 

    Không gỡ được mối tơ

    *

    Thôi bỏ hết vào thơ

    Em mang theo tiễn biệt 

    Kiếp sau, chưa hẹn đến 

    Đã vội vã chia ly …

    *

        CAO MỴ NHÂN 

         MỘNG DU.    CAO MỴ NHÂN

    Hình như anh có mộng du

    Nửa đêm kêu điện thoại ru tình buồn

    Nhưng rồi em lại ngủ dồn

    Sáng ra chợt thấy tâm hồn lênh đênh

    *

    Sao anh không ở bên em

    Cần chi điện thoại cho thêm lạ lùng

    Tưởng như em phải hầu đồng

    Tại em tưởng tượng khiến cùng ngại nhau

    *

    Nửa đêm ai đọc kinh cầu

    Em hong mắt lệ khô sầu xót xa

    Anh nơi điện thoại sa đà

    Thinh không bỗng chảy chan hoà nguồn vui

    *

    Qua cơn thương nhớ ngậm ngùi

    Mưa thời gian vội kéo lùi bình minh

    Trong chăn ấm áp riêng mình

    Thơ em viết mãi cuộc tình chia hai …

    *

      Hawthorne  10 – 6 – 2022

                CAO MỴ NHÂN 

    Dòng sông mây trắng

    Cao Mỵ Nhân

    Không biết nơi đó thuộc lãnh thổ nào trên trái đất này…

    Tôi chưa rời khỏi cái bờ sông đầy nắng vàng tơ tằm ấm áp, đôi bờ chảy về xa hun hút…

    Nhưng tôi phải dừng lại ở một khúc giữa vì nhìn hai phía bờ xa tít tắp, phía nào cũng mịt mù ánh nắng. Trời đang đứng bóng, chắc khoảng 1 giờ trưa.

    Tôi đứng đợi anh.

    Anh nói đừng nôn nóng khi phải đợi chờ và hãy nhìn xuống lòng sông xem sắc nước thế nào, anh sẽ tới phía sau mình…

    Mình thẫn thờ ngó xuống lòng sông…

    Dưới dòng sông ư?

    Không phải, trong lòng sông ấy mới đúng. Chao ôi, làm gì thấy nước chứ? Chỉ toàn mây là mây thôi.

    Mây đổ xuống kín đặc mặt sông, không hở một tấc nước.

    Và mây trắng đã hoà vào mặt nước sông xanh dương, vì trời đang nắng gắt hay sao mà mây trong lòng sông bốc khói…

    Dòng sông mây khói biến thành một cuộn mây màu lam tím sắc bông bèo, đẹp quá nhưng sợ quá vì tôi vẫn đang đứng trên bờ sông một mình, anh chưa đến.

    Người hùng ôi, màu mây khói hay cuộn mây trắng pha sắc tím bông bèo đó y như khói lửa sa trường ngày nào…

    Ngày chưa hò hẹn một lần giữa bom rơi đạn nổ, mồ hôi hoà nước mắt chan hoà trang thơ kỷ niệm sau cuộc chiến năm xưa…

    Tưởng không gặp anh, một khách kỷ nhân hồi.

    Nhưng trời đã sinh ra mình để nhất quyết gặp anh, để kết chặt khối tình thơ trễ muộn nhất, nhưng mới lạ nhất là chỉ có anh cùng với dòng sông vô thuỷ vô chung hiển hiện trước mặt này.

    Anh sợ mình không vui vì không có trọn vẹn một dòng sông cuộc đời, nghĩa là dòng sông phải đủ giang đầu, giang vĩ…

    Mình thấy anh khôn quá, anh sợ mình hát tiếp: Đồng ẩm Tương giang thuỷ, tương cố bất tương kiến…

    ..để than trời rằng người ở đầu sông, kẻ cuối sông, cùng uống nước sông Tương ấy, cùng nhớ nhau mà không thấy mặt nhau.

    Thôi thôi chẳng dại gì đọc Trường tương tư của Lương Ý Nương để mà day dứt buồn:

    Ngã tại Tương giang đầu
    Quân tại Tương giang vĩ
    Tương tư bất tương kiến
    Đồng ẩm Tương giang thuỷ

    Anh hóm hỉnh cười:

    Lạ thực, có mấy câu thơ căn bản trong bài Tương tư dài thoong (trường) mà trích dẫn cứ thay thay, đổi đổi.

    Tôi thấy có vị đọc thế này:

    Quân tại Tương giang đầu
    Thiếp tại Tương giang vĩ
    Đồng ẩm Tương giang thuỷ
    Tương cố bất tương kiến

    Song nào có sai đâu? Tương tư hay tương cố cũng đều là than thở nhớ nhau mà không thấy mặt nhau thôi à.

    Đúng rồi, huynh đệ chi binh ta ngày xưa có nhiều đan cử lý thú về khoản tương tư hay tương cố mà bất tương kiến này lắm.

    Thí dụ nếu bạn lính được nghỉ bảy ngày phép thì đi tìm người yêu, người tình một ngày đầu tức khắc, sáu ngày sau là chơi với vợ con ở nhà, yên tâm mọi mặt.

    Nhưng nếu bạn lính chỉ được nghỉ có ba ngày thôi thì dứt khoát cả ba ngày phép đó đều của vợ con, quan cũng như lính chẳng ai khiếu nại.

    Tất nhiên chưa có gia đình thì tuỳ nghi thăm bố mẹ, anh chị em và bạn bè. Nhu cầu tương tự vừa nêu trên.

    Biết rồi, ai cũng biết thế rồi, dù anh là lính đa tình hay khíu chọ như anh có lúc chẳng hạn.

    Bởi thế cho nên tôi mới… tặng cho người thơ một khúc sông cũng khá dài, không có đầu sông, cuối bến như đã thấy trên bài Đoạn đường mòn.

    Từ khúc sông ấy, ta nhìn thấy đôi bờ thẳng tắp, dẫn ta đi tới xa xăm nào không cần biết.

    Cũng chẳng thấy mặt sông nổi sóng.

    Trong lòng sông chỉ có mây, toàn là mây trên trời rớt xuống hay mây trên chín tầng cao in đáy nước mịt mù.

    Có phải dòng sông mây trắng đó cho ta cảm giác không vui, không buồn?

    Hay vì lòng sông đó giấu nỗi cuồng điên của sóng nước ngàn năm dưới lớp mây nổi như khói lửa bom rơi đạn nổ thời nào. Hình ảnh đã xa rồi với niên trưởng chúng ta. Còn khắc khoải u hoài với lớp chúng ta. Hoặc giả sẽ tan mây, tản khói khi con em chúng ta được ân hưởng bầu trời trong sáng cùng thời khắc bốn mùa đều là mùa xuân.

    Dòng sông bấy giờ sẽ không đầy mây, tràn khói như hôm nay, anh hẹn mình ở bờ sông này, chỉ có đôi bờ giữa nguyên vẹn con sông không thấy giang đầu, giang vĩ… ngõ hầu khỏi phải tương cố tương tư…

    CAO MỴ NHÂN

  • Lê Tuấn,  Văn,  Văn Thơ

    Người Đàn Bà Vét Cạn Nỗi Buồn

    Người Đàn Bà Vét Cạn Nỗi Buồn

    Tế Luân.

            Thành phố Milpitas có một khu thương mại rất lớn gọi là Great Mall, khu shopping này nằm trên đường Great Mall Dr tức là đường Capital Ave nối dài và cắt ngang từ hai con đường lớn Montaguy Exp và đường Main St

    Khu shopping Great Mall là trung tâm mua sắm lớn nhất của thành phố Milpitas khu vực này càng trở nên đông đúc hơn, từ khi thành phố cho xây dựng một trạm xe Bart (Milpitas Bart Station) loại xe lửa điện chạy từ thành phố San Francisco về đến Milpitas, do đó những khoảng đất trống quanh khu vực, đã được các nhà thầu xây dựng, họ đã kiến thiết xây cất thành những toà nhà cao tầng, hay những căn hộ cao cấp, dành cho nhu cầu nhà ở nhiều hơn, biến khu vực này thành một nơi rất đông đúc và sầm uất, lượng xe cộ qua lại quá đông, đôi lúc gây tắc nghẽn giao thông.

              Từ trung tâm mua sắm Great Mall nhìn qua bên kia đường Main ở đó có một khu chung cư dành cho những người có thu nhập thấp (low income), gọi là khu Montevista Apartments. Ngắm nhìn những hàng cây trồng quanh con đường và ngay bên trong chung cư đã mọc lên cao to, cành lá xum xuê, đủ biết khu chung cư này đã xây dựng từ lâu. 

    Trong khu đất rộng 16 mẫu được xây cất theo phong cách Italia rất khang trang sạch đẹp. Montevista Apartments được phân ra nhiều building, ghi dấu bằng các mẫu tự ABC.

    Trên danh nghĩa là khu chung cư dành cho người có lợi tức thấp, nhưng nếu chúng ta nhìn vào bãi đậu xe trong chung cư, chúng ta sẻ rất ngạc nhiên vì toàn là xe loại sang (luxury car).

    Cư dân sinh sống trong khu chung cư này bao gồm nhiều sắc dân khác nhau,  nhưng người Ấn Độ chiếm số đông hơn, dĩ nhiên cũng có người Việt Nam, nhưng không đông như người Ấn, người Mễ và Châu Phi.

    Gia đình Luân dọn đến khu chung cư này được vài năm nay, nơi ở của hai vợ chồng là căn hộ một phòng ngủ, nằm trong dẫy lầu  Building chữ M, địa điểm này nằm ớ góc đường Able St và Curtis Ave, do đó Luân thường ra vào ở cổng sau nằm trên con đường Able.

    Cánh cổng này được điều khiển bằng remote control, cánh cổng mở ra nhìn qua bên kia đường Able là đối diện với hàng rào nhà tù thật rộng lớn, đó là nhà tù Elmwood trên lãnh thổ của thành phố Milpitas, nhà tù này được quản lý bởi quận hạt Santa Clara.

    Mỗi lần lái xe ra vào đều phải chạy ngang nhà tù này. Nhìn khung cảnh nhà tù với hàng rào kẽm gai nhiều lớp, giăng kín vươn cao bao bọc quanh nhà tù.

    Nhà tù Elmwood đã làm tâm trí của Luân thêm tò mò muốn tìm hiểu về lịch sử tồn tại của nhà tù này như thế nào? Luân vào Google search tìm hiểu thêm về lịch sử và sự hình thành nhà tù này.

    Vào những năm 1870, nó thuộc sở hữu của John O’Toole, người đã lập một trang trại và nuôi những con ngựa thuần chủng, cũng trong khu đất này John O’Toole đã xây dựng một lâu đài thời Victoria.

    Nhưng sau đó O’Toole bán tài sản này cho James Boyd vào năm 1883. Chính người chủ mới của trang trại là James Boyd đã bán nó cho Quận Santa Clara với giá 24.000 đô la vào năm 1884.

    Quận Hạt Santa Clara bắt đầu sử dụng tài sản này như một ngôi nhà tạm trú cho người vô gia cư ((homeless shelter) và người nghèo, khiến cư dân nơi đây gọi dinh thự này là “cung điện cho người nghèo.”

    Cho đến năm 1950 vì nhu cầu nhà tù mở rộng, để có nơi giam giữ những phạm nhận tội tiểu hình. Quận Hạt Santa Clara đã sử dụng (homeless shelter) để làm nơi giam giữ tù nhân phạm tội tiểu hình, từ đó Santa Clara đã thành lập khu Liên Hợp Cải Huấn Elmwood.

    Cư dân thành phố Milpitas đã phản đối quyết định này, người dân không thích có một nhà tù ở nơi này, vi nó sẽ mang đến một tiếng xấu cho khu vực.

    Rõ ràng, không thành phố nào muốn có một nhà tù nằm trong khu đất của thành phố. Nghị viên Bob Livengood của Milpitas nói.

    Elmwood giống như một ông chú điên thường xuất hiện vào dịp lễ Giáng sinh hàng năm và bạn ước gì ông ấy sẽ không xuất hiện, nhưng ông ấy có.”

    Nhà tù Elmwood và Thành phố Milpitas đã có một mối quan hệ nhiều sóng gió. Nhà tù đã trải qua nhiều lần tái sinh: đầu tiên là dinh thự của một người giàu, sau đó là nơi trú ẩn của người vô gia cư, và sau đó chính thứ trở thành nhà tù.

    Tuy nhiên nhà tù Elmwood lại có một mối liên hệ hỗ trợ cho thành phố. Khi cư dân nơi đây muốn nâng cao vị trí để trở thành một Thành Phố.  

    Nhưng theo luật quy định rằng một thị trấn cần có dân số 500 người để được hợp thức hoá trở nên một thành phố. Tuy nhiên vào thời gian đó cư dân trong thị trấn chì có 400 người, không hội đủ tiêu chuẩn.

    Hội đồng thị trấn đã đặt câu hỏi? Liệu dân số nhà tù Elmwood có thể được tính là một phần dân số của thị trấn hay không. Quận Hạt Santa Clara trả lời có, nhờ số lượng tù nhân khá đông trong nhà tù đã nâng cấp thị trấn Milpitas.

    Năm 1954, Milpitas chính thức trở thành một thành phố trực thuộc Quận hạt Santa Clara. Có thời điểm thành phố Milpitas bỏ ra 37 triệu dollars đề nghị Quận hạt Santa Clara chuyển nhà tù ra khỏi thành phố. Nhưng quyết định di dời nhà tù Elmwood là quá phức tạp và tốn kém rất nhiều cho công quỹ, do đó nhà tù vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

    Hiện tại, nhà tù giam giữ khoảng 2.500 tù nhân, những người này ở lại trung bình từ 3 tháng đến 1 năm.

    Và giờ đây, thành phố Milpitas đang phát triển nhanh chóng, Hội đồng thành phố đã đạt được sự thỏa hiệp giữa mong muốn có nhà ở và sự chán ghét đối với sự hiện diện của nhà tù.

    Năm 2003, Quận Hạt Santa Clara bán 57 mẫu đất, tài sản của nhà tù Elmwood. Một phần bất động sản dọc theo Xa lộ liên bang 880, khu đất rộng lớn này đã được công ty KB Home phát triển nhà ở mua lại và nhanh chóng xây dựng thành khu chung cư cao cấp.

    Các quan chức thành phố nói rằng việc phát triển khu đất xung quanh nhà tù thực hiện hai nhiệm vụ bằng cách cung cấp nhà ở rất cần thiết và cũng đảm bảo rằng nhà tù sẽ không mở rộng thêm nữa.

    Sự có mặt của nhà tù dần dần trở nên qúa quen thuộc, đến mức cư dân nơi đây gần như quên mất sự hiện diện của nó.

    Tuy nhiên mỗi ngày ra vào đi ngang nhà tù này, hình ảnh những hàng rào kẽm gai cao vút bao bọc xung quanh, đã khiến Luân hồi tưởng lại thời gian tù tội sau năm 1975

    Đôi lúc ký ức như hồi tưởng lại thời gian tù đày, Luân lại giật mình nhớ lại quãng thời gian sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Luân đã trải qua 8 năm tù biệt xứ ra tận vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn Việt Bắc, sống vất vưởng trong trại tập trung của cộng sản, đã bao lần bệnh hoạn xém chết vì thiếu thốn và cái đói dày vò thân xác, còn phải đi lao động khổ sai mà tương lai thì mịt mù không biết đến bao giờ mới được thả.

    Những ám ảnh tù đày đôi khi thoáng hiện về trong giấc mơ, để lại một chút gì đó mà các nhà tâm lý học gọi là khủng hoảng tồn tại.

    Khủng hoảng (Crisis) là trạng thái mất thăng bằng về cảm xúc và lý trí, khi một người phải đối diện với khủng hoảng tồi tệ nhất trong qúa khứ, như giai đoạn tù đày khổ sai mà Luân đã trải qua.

    Tuy nhiên đối với Luân cũng nhờ ý trí sắt thép một tinh thần bất khuất trước mọi nghịch cảnh mà Luân đã được rèn luyện từ khi còn bé, theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu nên tinh thần của Luân rất vững.

    Khi chúng ta nghĩ về qúa khứ, chúng ta thường tưởng tượng những gì có thể xảy ra gây tác động mạnh đến tinh thần.

              Cảm xúc của chúng ta có hiệu ứng vật lý tạo nên sự căng thẳng, lo lắng, sợ hãi và khiến cơ thể gần như cảm nhận được điều đó. Điều này làm chúng ta dễ lầm tưởng những lo lắng, suy nghĩ này sẽ trở thành sự thật.

              Nhiều nhà tâm lý học, có lời khuyên rằng khi viết tất cả những suy nghĩ phiền não ra giấy chúng ta có thể giảm được mức độ căng thẳng. Trong quá trình viết ra sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về cảm xúc của bản thân so với những diễn biến trong tâm trí hay trong giấc mơ.

    Khi bộ óc con người chuyển qua một suy tư mới hơn, tích cực hơn, tức thì tầng số của suy nghĩ tiêu cực sẽ suy giảm xuống mức bằng không. Tâm trí sẽ sảng khoái hơn và tươi vui, yêu đời hơn.

    Nói thật lòng Luân không hề bị ành hưởng của tâm lý khủng hoảng. Tuy nhiên Luân đã viết Hồi Ký Đội Đập Đá Trại 6 Nghệ Tĩnh. Viết về giai đoạn tù đày, viết như một nhân chứng sống, nói lên sự thật phũ phàng của chế độ cộng sản Việt Nam.

    Viết như một bản án tố cáo trước dư luận thế giới mà cộng sản đã gây ra, sau tháng 4 năm 1975 khi xâm chiếm miền Nam Việt Nam.

    Kể từ khi chính thức về hưu (retire) Luân đã sử dụng thời gian nhàn rỗi vào công việc viết lách và hội hoạ. Luân đã lần lượt ấn hành 6 tác phẩm, hầu như mỗi năm xuất bản một quyển, khả năng làm thơ viết truyện của Luân rất dồi dào, cộng thêm một ít tài vặt như biết layout book, biết sử dụng Photoshop để tạo hình ảnh, và khả năng hội hoạ, biết vẽ những bức tranh nếu cần đến.

    Vào những buổi sáng hai vợ chồng Luân thường rủ nhau đi bộ tập thể dục, đi bộ một vòng rất xa vào khoảng 1 tiếng mới quay trở về nhà, mỗi lần đi như vậy điểm cuối cùng là đến một công viên thật đẹp. cây cỏ xanh tươi thật yên tĩnh, cả hai ngồi nghỉ ngắm cảnh đẹp của công viên.

    Nhà Luân gần với công viên này, nên buổi sáng nếu trời không mưa gió và không qúa lạnh, hai vợ chồng lại đi bộ, có thời gian bà xã không thích đi bộ ra công viên, thì Luân đi một mình.

     Từ đó Luân có thói quen ra công viên kiếm một băng ghế ngồi, trên tay cầm quyển sách truyện hay một tập thơ, mà Luân thường đến thư viện gần nhà mượn để đem về đọc, sách thường là những tiểu thuyết hay triết học.

    Hầu như tất cả những quyển sách dịch của tác giả Nguyên Phong mà Luân đã đọc qua như:  

    Trở về từ xứ tuyết. Trở về từ Cõi Sáng. Ngọc Sáng Trong Hoa Sen. Minh Triết trong đời sống. Đường mây qua xứ tuyết. Hành trình về Phương Đông.  Bên rặng Tuyết Sơn.  Hoa sen trên tuyết.  

    Hay những tác phẩm của hai triết gia Ấn Độ mà Luân yêu thích đó là Krishnamutri và Osho.

    Khi những trang sách hấp dẫn lôi cuốn, đủ sức cuốn hút đôi mắt Luân phải theo sát từng dòng chữ trong sách thì Luân rất ít khi ngước nhìn cảnh vật chung quanh. Chỉ những lúc mỏi mắt hay gặp một đoạn văn khô khan khó hiểu lúc ấy Luân mới buông quyển sách và ngước lên nhìn cảnh vật.

    Luân ngắm nhìn con đường từ cổng chính công viên nằm trên đường Main, là con đường lót đá rợp bóng cây xanh, hơi uốn cong một chút đi xuyên ngang qua công viên thẳng ra cổng sau là con đường Able cũng đối diện với nhà tù Elmwood.

    Chính nhờ nhà tù này mà an ninh khu vực khá yên tĩnh không thấy những người vô gia cư (homeless) xuất hiện.

    Công viên nằm giữa hai dẫy lầu khu chung cư cao cấp, mà giá bán mỗi căn hộ rất cao, sấp sỉ 800 ngàn đô la, vậy mà có căn nào treo biển bán thì chỉ 1 tuấn sau đã bán mất rồi.

    Cổng viên nằm giữa hai con đường Main và đường Able, là một khoảng trời rộng, rợp bóng mát cây xanh nó như lá phổi của khu vực này.

    Những dòng xe cộ chạy ngược xuôi trông như hai dòng nước của hai con sông chảy song song. Công viên như một ốc đảo nằm lọt chính giữa, với những hàng cây xanh bao bọc chung quanh, bên trong là những bãi cỏ xanh mướt, những hàng cây nhỏ thấp bé gồm nhiều loài hoa đủ sắc màu vẫn đua nở, tiếng chim vẫn líu lo hót vang, tạo một cảm giác rất bình yên thư giãn.

    Luân đổi hướng nhìn về phía hồ nước nhỏ nhỏ xinh xinh mà ở nơi đó những con vịt trời đang mò mẫm sục mỏ xuống nước tìm thức ăn, thỉnh thoảng có vài con vỗ cánh bay cao với đôi cánh dang rộng và cái cổ vươn ra tạo những tiếng kêu khan làm vang động khu vực.

    Vài con đường lót đá lượn quanh bên trong công viên để người ta đi dạo mát hay chạy bộ tập thể dục. Có cả khu danh cho các em bé như cầu tuột hay xích đu mà các phụ huynh thưởng đem con ra vui chơi.

    Luân bất chợt nhận ra có người đàn bà thường xuất hiện vào buổi sáng, sự xuất hiện của người đàn bà này đã mấy hôm nay rồi, lúc đầu Luân không để ý đến. Nhưng hôm nay sự xuất hiện của người đàn bà đã làm Luân chú ý quan sát kỹ hơn

    Người đàn bà lững thững bước đi từ hướng cổng chính vào công viên, dáng đi chậm chạp mặt hơi cúi như đang đăm chiêu suy nghĩ điều gì, người đàn bà có mái tóc đen thả dài, gương mặt phúc hậu xinh xắn nhưng hơi buồn, bà thong thà đi vài vòng trong công viên, khi đôi chân thấm mệt thì bà ngồi nghĩ ở cái băng ghế nhìn ra hướng hồ nước nơi có những con vịt trời bơi lội.

    Ở cái băng ghế gỗ Luân đang ngồi khoảng cách không xa lắm nơi người đan bà đang ngồi. Một lúc sau Luân chợt nhận ra người đàn bà đứng lên và đang đi về hướng của Luân.

    Khi người đàn bà đi ngang qua trước mặt, Luân nhận ra vẻ đẹp hiền hậu trí thức trên khuôn mặt của bà, chính nét đẹp huyền bí của người đàn bà này, sự chững trạc của người từng trải đã ngoài 60 tuổi, có le bà đã về hưu (retire), khiên Luân nảy ra ý định muốn vẽ người đẹp, muôn đem vẻ đẹp này lên trên miếng vải bố mà Luân dự định sẽ mang theo cả giá vẽ, bộ cọ và sơn dầu đến nơi đây vào ngày mai, hay những ngày kế tiếp.

    Từ hôm đó Luân đã ấp ủ phải phác hoạ một bức chân dung người đàn bà trong công viên, Luân muốn đem vẻ đẹp quyến rũ và một chút huyền bí của người đàn bà cùng với sắc màu cỏ cây trong công viên vào bức tranh sơn dầu của mình.

    Buổi sáng hôm sau Luân đã dứt khoát ra công viên với cái giá vẽ và khung vải bố để thực hiện bức tranh, với niềm hy vọng người đàn bà sẽ xuất hiện như thường lệ.

    Buổi sáng sớm khi ánh nắng chan hoà trải rộng trên ngọn cây, ánh sáng chiếu xuyên qua cành lá tạo thành những đốm sáng thật đẹp, ánh nắng dịu êm của một buổi sáng lan toả trên thảm cỏ xanh biếc trên những bông hoa lung linh sắc màu, như phản chiếu một vài hạt sương đêm còn đọng lại.

    Luân đã chuẩn bị dựng sẵn cái giá vẽ có chân đứng, và một khung vẽ vải bố, cùng với cọ vẽ và hộp sơn dầu. Trong lúc đợi người mẫu, chính là người đàn bà huyền bí trong công viên xuất hiện, đây là lúc Luân phác hoạ vài đường nét làm nền cho bức chân dung, đang mải tập trung vào bức vẽ phác hoạ cảnh vật làm bối cảnh nền cho bức chân dung.

    Luân chợt nhận ra cái bóng của người đàn bà đã xuất hiện, người đàn bà đang chậm rãi bước vào công viên. Luân rất mừng vì người mẫu đã xuất hiện, tuy nhiên Luân phải cố gắng giả vờ như không tập trung vào người mẫu, để người đàn bà không bị ngượng ngùng vì ánh mắt soi mói của một hoạ sĩ, ánh mắt nhìn theo một vẻ đẹp mang tính nghệ thuật đôi khi sâu thẩm khiến người mẫu giật mình vì ngượng.

    Vẫn như mọi khi, thói quen cũng chỉ là những gì lập đi lập lại một cách cố hữu quá quen thuộc, Người đàn bà bước những bước rất nhẹ nhàng thong thả trên con đường lót đá bên trong công viên, người đàn bà bước thản nhiên như không cần biết chung quanh có ái đó đang quan sát mình.

    Nhưng hôm nay người đàn bà có vẻ ngạc nhiên khi bước gần đến chỗ Luân đang đặt giá vẽ và đang hí hoáy vẽ, người đàn bà như đi thật chậm lại, chắc trong suy nghĩ của bà như vừa chợt đặt câu hỏi, anh chàng hoạ sĩ này ở đâu xuất hiện nơi này và đang vẽ cái gì?

    Người đàn bà bước đến gần hơn, đôi mắt lướt nhìn rất nhanh qua bức vẽ như một sự tò mò xem vẽ gì đây? Một cái liếc nhìn như vô tình rồi người đàn bà đi lướt qua.

    Đây là một cơ hội thật tốt Luân như một cái máy ảnh thu bắt ngay những nét chính trên gương mặt, điểm nhấn của vẻ đạp trên gương mặt nằm chỗ nào, đôi mắt hay bờ môi, điểm huyền bí ẩn dấu nơi khuôn mặt nằm chỗ nào, ánh mắt làn da hay suối tóc, hay bờ ngực vòng eo.

    Luân đã nhanh chóng vội vàng phác hoạ ngay những đường nét chính trên gương mặt người đàn bà, với cây cọ với những mảng màu sắc.

    Mới chỉ nhìn qua một lần đầu, chưa đủ để thể hiện hết vẻ đẹp của người đàn bà. Luân cần tạo thêm một vài cơ hội khác để nhìn thật kỹ hơn nét đẹp của người đàn bà này, khi ấy Luân mới hy vọng thực hiện được một tác phẩm nghệ thuật như ý muốn.

    Mấy ngày sau Luân thích thú ngắm nhìn bức chân dung mới vẽ, Luân ngắm thật kỹ bức vẽ và nhận xét bức chân dung gần lột tả được gương mặt người đàn bà trong công viên, nhưng trên gương mặt người đàn bà dường như vẫn chưa nắm được cái hồn của ánh mắt hay nụ cười bí hiểm, vì thật ra người đàn bà trong công viên chưa bao giờ cười, có đôi lần Luân bắt gặp trên đôi môi phớt hồng của người đàn bà như vừa nhếch mép che dấu một nụ cười.

    Luân chợt nhớ lại có lần đi du lịch Paris, đến thăm bảo tàng Louvre Museum tại Paris, Luân được hân hạnh đến thật gần bức tranh nàng Mona Lisa của danh hoạ Leonardo Da Vinci, trên gương mặt nàng Mona Lisa ẩn hiện một nụ cười thật huyền bí, nụ cười đó thể hiện trên ánh mắt bờ môi và cả gương mặt của nàng.

    Thời gian đó Luân đã viết một bài thơ gửi tặng nàng Mona Lisa, hôm nay viết ra đây để nói lên vẻ đẹp huyền bí của một nụ cười đẹp nhất thế giới.

    Nàng Mona Lisa

    Tôi thấy hoàng hôn trong mắt em

    Suối tóc buông rơi sợi ướt mềm

    Nụ cười huyền bí như che dấu

    Ôm mối tình riêng cả nỗi niềm.

     

    Mona Lisa tôi gặp nàng

    Nụ cười che giấu những âm vang

    Vui buồn ai biết? Nàng e thẹn

    Ánh mắt nhìn ai thật dịu dàng.

     

    Luân ngồi ngắm lại bức chân dung người đàn bà trong công viên mà mình mới vẽ, dường như thiếu một điểm nhấn nào đó thoát ra từ ánh mắt, và cũng thiếu một nét nào đó nơi khoé miệng để làm nổi bật nét huyền bí của nụ cười trên gương mặt người mẫu.

    Chính vì thế, Luân phải đến công viên vào mỗi buổi sáng, ngồi đúng vị trí nơi địa điểm đặt giá vẽ, ngồi chờ người đàn bà không hề quen biết đi dạo, bước những bước nhẹ nhàng trên con đường lót đá trong công viên.

    Luân phải cố nắm bắt được nét chính của ánh mắt và nụ cười, để bức chân dung mình đang vẽ sống động hơn không khô khan giả tạo.

    Có lúc Luân chợt giật mình nghĩ lại, đây có phải làm một tình yêu đơn phương vừa chớm nở, như một loài hoa dại mọc ven đường, nhưng đầy quyến rũ mê say lòng người.

    Ý nghĩ này chợt thoáng qua rồi tắt lịm, Luân tự biện hộ cho chính mình, vì nỗi đam mê nghệ thuật hội hoạ của một tâm hồn nghệ sĩ đầy tính lãng mạn, thường hay đa sầu đa cảm chỉ có thế thôi.

    Có một lần Luân đã viết một bài thơ với tựa đề Tôi Mơ Là Hoạ Sĩ, bài thơ khá dài Luân trích dẫn một đoạn ngắn, vì có chút gần gũi với câu chuyện kể hôm nay.

    Tôi muốn có cục gôm thần thánh

    Tẩy xóa đi những nét vẽ u sầu

    Tẩy xóa đi những đau buồn nhân thế

    Cho bình an trở lại bước khởi đầu.

    Tôi vẽ thêm ánh cầu vồng rực rỡ

    Mà tay em chạm đến những ước mơ

    Mơ về thời con gái ngày xưa ấy

    Tuổi thần tiên trong sáng đẹp như mơ.

    Tôi còn vẽ những gì em mơ ước

    Trong vòng tay ôm một bó hoa xinh

    Nhắm mặt lại tặng em điều huyền bí

    Nụ hôn đầu thơm nhẹ đóa nguyên trinh

    Lê Tuấn

    Trích trong tập thơ Tình yêu của tôi.

     

    Luân đã nắm bắt được những điểm nhấn của ánh mắt, sự quan sát tinh tế này, người đàn bà trong công viên không bao giờ biết, có đôi lúc người đàn bà cũng tò mò, đi thật chậm khi lướt qua giá vẽ của Luân, để cố tình nhìn xem anh chàng hoạ sĩ này đang vẽ gì đây. Nhưng mỗi lần như vậy Luân đã kịp thời dùng miếng vải trắng che lại, khiến người đàn bà thêm tò mò nhưng không biết làm gì hơn. Đó cũng là điều bí mật của Luân với người đàn bà không quen biết trong công viên.

    Bức vẽ chân dung đã hoàn tất được vài ngày, tuy nhiên Luân vẫn muốn kiểm chứng hình ảnh, Luân đã dùng cellphone chụp lại bức chân dung, Luân vẫn đến công viên vào buổi sáng như người tập thể dục, và vẫn ngồi đúng băng ghế mà Luân đã đặt giá vẽ, nhưng hôm nay không có giá vẽ, trên tay Luân là màn ảnh nhỏ của cái cellphone mang hình ảnh bức chân dung.

    Một lúc sau vẫn như thường lệ người đàn bà xuất hiện, chậm rãi đi từ cổng chính, bước trên con đường lót đá rợp bóng cây xanh, dường như người đan bà vừa nhận ra sự có mặt của Luân, nhưng điều ngạc nhiên là không có cái giá vẽ, chỉ là một người ngối đó với cái cellphone trên tay.

    Người đàn bà chậm rãi đi qua gần như là một thói quen cố hữu, người đàn bà đi đến cái băng ghế quen thuộc gần nơi hồ nước, bà ngôi tại đó ánh mắt buồn nhìn xa xăm, đầu hơi cúi, hình như bà đã mơ về giấc mơ đêm qua, một giấc mơ thật đẹp của thời con gái, mơ về một thời xa xưa, ở nơi ấy có một cuộc tình thật đẹp, trải qua.     

    bốn mùa rực rỡ đầy hoa. Dòng suy tư cứ thế mà tuôn trào, Luân vội lấy trong túi ra mảnh giấy và cây bút, viết vội một bài thơ vừa ngẫu hứng trong suy nghĩ của mình.

    Em đến nơi này

    Em biết không?

    Lòng quạnh hiu bóng xế ánh tà

    Nghe tiếng gió thì thầm qua kẽ lá

    Chiếc lá nói về mùa thu đã xa.

    Còn tôi đến đây

    Với những chiếc lá mùa thu diễm lệ

    Nghe tiếng hồn thương khóc trong lòng

    Và để thấy em ngồi lặng im

    Vét cạn những dư âm buồn trong giấc ngủ đêm qua.

    Ôi! Dịu nhẹ buồn tênh

    Em đến mang theo chút duyên thầm

    Nghe lòng tan vỡ mối tình câm

    Tơ xanh ngây ngất tình che giấu

    Em buồn lẩn trốn biết về đâu.

     

    Thấy em như vạn nỗi sầu

    Tình vừa thay áo buốt đau xé lòng

    Chia ly nhuộm tím vệt hồng

    Uyên ương vỗ cánh bỏ lồng bay xa.

    Bây giờ đơn lẻ bóng tà

    Xa xăm nỗi nhớ mặn mà vấn vương

    Yêu là nhớ, mơ là thương

    Đêm trăng ngày ấy vô thường thế nhân.

    Tế Luân

     

    Luân viết xong bài thơ, ngồi đọc lại và cảm nhận tư tưởng, ý nghĩa của bài

    thơ cũng khá hay, thật ra ngoài khả năng về hội hoạ Luân còn thưởng hay viết những bài thơ, Luân hay tự ví mình như người nghệ sĩ lang thang hoài trong tâm tưởng, vẫn còn viết mãi những vần thơ để ca tụng tình yêu.

             

    Bức chân dung Luân đã vẽ xong, đem bọc lại cất vào một góc tường. Rồi cũng tạm quên đi một sự xáo trộn tâm lý mang đầy tính lãng mạn nghệ thuật.

    Một hôm Luân nhận được lời mời của vợ chồng người bạn tham dự buổi tiệc mừng 50 năm thành hôn tổ chức tại nhà hàng.

    Luân rủ vợ cùng đi nhưng bà xã Luân thường hay sụt sùi mỗi khi thời tiết thay đổi, ngồi chung một bàn mà đôi khi húng hắng ho thì cũng hơi ngại, nhất là thời gian gần đây tình trạng covid 19 vẫn còn lây lan, mặc dù không bắt buộc phải mang khẩu trang, tuy nhiên những ai cảm thấy không khoẻ lắm, nếu thử que Covid 19 kit test, mà lỡ bị hai vạch thì cũng đừng lo lắng quá, nhất là những ai đã chích ngừa đủ 3 mũi, thì cũng chỉ bị trong vòng 3 hay 4 ngày, uống thuốc cảm cúm là tự hết, khi thử lại chỉ còn một vạch (negative).

    Khách mời toàn những bạn bè thân quen, vậy mà cũng khá đông trên dưới 50 người. Bạn bè đa số là những người đã retire, vui thú điền viên, người thì trở thành nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, người thì hoạ sĩ, hay trở thành chuyên gia cây cảnh.

    Luân bước đến số bàn của mình, chào hỏi và bắt tay thân thiện với một vài người bạn, có người hỏi thăm những câu xã giao thông thường.

    Luân ngồi xuống bên cạnh cái ghế còn bỏ trống, Luân hỏi người bạn bên cạnh về cái ghế bỏ trống mà chưa thấy ai xuất hiện, người bạn cho biết đó là cái ghế của một nữ lưu, người mới gọi phone cho biết là hơi bị kẹt xe nên đến trễ.

    Một lúc sau vị khách là một nữ lưu đến hơi trễ đã có mặt, bà đưa mắt nhìn mọi người và nở một nụ cười thật đẹp, bà xin lỗi vị bị kẹt xe nên đến hơi trễ.

    Đúng là một nữ lưu rất đẹp, một vóc dáng mặn mà rất có duyên của một phụ nữ đứng tuổi. Luân chợt nhận ra người đàn bà ngồi bên cạnh trông rất quen, dường như Luân đã gặp người đàn bà này ở đâu đó, Luân cố nhớ lại nhưng vẫn chưa nhớ ra, chính vì thế Luân cứ thẫn thờ nghĩ ngợi cố moi trong trí nhớ, mình đã gặp người đàn bà này tại nơi nào, Luân đang mải suy nghĩ mà quên cả người bạn hoạ sĩ ngồi bên cạnh đang nói chuyện về hội hoạ.

    Trước lúc nhập tiệc vợ chồng nhà văn Trung Dũng, chủ nhân của bữa tiệc tuyên bố lý do chính hôm nay là kỷ niệm 50 năm lễ thành hôn. Mọi người vỗ tay táng thưởng và khen đôi uyên ương rất đẹp trong trang phục như ngày mới cưới.

    Anh chị chủ nhân buổi lễ hấp hôn vui vẻ đến từng bàn giới thiệu từng người, khi đến bàn nơi Luân ngồi, cô dâu chính của buổi lễ hấp hôn đến đứng sau ghế ngồi của người đàn bà và giới thiệu, đây là Duyên người bạn thân cùng học Trưng Vương của tôi, nàng là hoa khôi của lớp đấy.

    Khi ấy Luân mới biết tên Duyên, Luân nhắc lại tên Duyên như cố ghi nhớ nếu không lại quên. Đĩa thức ăn đầu tiên được nhà hàng mang ra phục vụ, mọi người mời nhau cầm đũa gắp thức ăn, riêng Luân vẫn thẫn thờ suy tư vì nét đẹp thật quyến rũ của Duyên.

    Tiếng nói thật nhỏ nhẹ của kiều nữ, Duyên xoay mâm thức ăn đến trước mặt Luân và nói:  Xin mời anh dùng.

    Luân như người đang mợ vừa chợt tỉnh. Vội đáp

    Vâng cảm ơn chị. Trước hết tôi xin tự giới thiệu tôi là Luân, rất hân hạnh được biết chị Duyên.

    Xin để tôi tiếp cho chị trước đã, nói là làm ngay. Luân cầm cái muỗng múc một ít thức ăn bỏ vào đĩa của Duyên, Thấy Luân định múc thêm

    Duyên lên tiếng, cám ơn anh Luân, như thế là đủ rồi, tôi ăn kiêng vì sợ nhiều cholesterol. Thay vì cầm đũa Luân lại cầm 2 cái ly thuỷ tinh rót một ít rượu Red Wine vào hai cái ly. Luân nâng ly cùng những người bạn ngồi chung bàn, chúc mừng buổi hội ngộ và gợi chuyện với Duyên.

    Thú thật từ khi chị đến, tôi nhận ra đã gặp chị nhiều lần ở nơi nào đó dường như nơi công viên, nếu không đúng thì người đàn bà mà tôi thường gặp trong công viên trông rất giống chị.

    Duyên lên tiếng vừa cười vừa nói

    Giống một người đã gặp trong công viên thì thật giống đấy. Nơi công viên chỗ anh thường đến ngồi đọc sách hay dựng một gía vẽ đứng vẽ tranh.

    Luân buột miệng nói, thì ra người đàn bà mỗi buổi sáng thường đi dạo nơi công viên chính là chị. Nếu thế thì hân hạnh qúa, hôm nay tôi mới chính thức quen biết chị. Có điều khiến tôi không nhận ra, là vì hôm nay chị trang điểm thât lộng lẫy,  trông khác hẳn.

    Duyên chen vào câu nói. Đúng rồi anh không nhận ra là phải, bời vì hôm nay tôi trang điểm hơi kỹ và mặc trang phục đẹp nên nhìn có khác đi rất nhiều. Còn những ngày tôi đi dạo trong công viên thì ăn mặc giản dị, không son phấn trang điểm nên nhìn khác hẳn là đúng rồi.

    Được trớn nên sẵn đà theo câu chuyện Luân mạnh dạn nói tiếp.

    Tôi dám thực lòng mà nói, nhan sắc của chị ở tuổi này mà vẫn đẹp mặn mà trông chị rất có duyên. Nếu đi ngược lại thời gian trước đây khi còn là thiếu nữ chắc chắn còn đẹp hơn rất nhiều, sẽ có hàng tá chàng trai lẽo đẽo theo sau.

    Duyên nở một nụ cười và lên tiếng

    Anh Luân lại quá khen rồi đấy.

    Luân lắc đầu nói, đó là lời nói thật lòng tôi nghĩ sao nói vậy, dưới ánh mắt nhận xét của tôi.

    Luân tiếp nối câu chuyện bằng lời hỏi thăm. À thưa chị, còn anh đâu không thấy, lại để chị đi một mình.

    Thoáng một nét buồn trên gương mặt. Duyên trả lời

    Nhà tôi mất rồi!  Một câu nói ngắn gọn, có lẽ Duyên không muốn người lạ đi sâu vào đời tư của mình, nên Duyên tìm cách lảng sang câu chuyện khác.

    Duyên đặt câu hỏi:

    Bức tranh anh Luân vẽ ở ngoài công viên là anh vẽ phong cảnh đẹp nơi ấy phải không?

    Luân trả lời. Thưa chị không phải thế, vì phong cảnh nơi công viên có gì đẹp đâu mà phải vẽ nó. Thật ra tôi vẽ chân dung của một người đàn bà không quen biết, người đàn bà thường xuất hiện ở nơi ấy.

    Vẽ chân dung mà không có người mẫu. Duyên chen vào câu nói.

    Luân trả lời: Có người mẫu đấy chứ. Chị thử đoán xem người mẫu này là ai?

    Duyên trả lời: Đoán làm sao được, vì thời gian anh vẽ bức tranh tôi có nhìn thấy có người nào đứng đó để gọi là người mẫu.

    Luân mỉm cười và nói. Nếu ở nơi công viên không có ai ngoài chị ra, vậy tôi có thể vẽ chị được không?

    Duyên cười thật duyên dáng và trả lời. Anh vẽ tôi để làm gì, vì những lúc đi dạo trong công viên tôi ăn mặc nhếch nhác, mặt mũi bơ phờ không son phấn, ai mà thèm nhìn, nếu anh vẽ tôi vào lúc ấy, tôi sợ rằng sẽ làm nhem nhuốc bức tranh khó coi lắm.

    Luân trả lời: Xin chi đừng lo, bởi vì dưới ánh mắt của một hoạ sĩ mặc dù nghiệp dư như tôi, nhưng dưới đường nét của cây cọ và sắc màu hoà quyện bên nhau, thì bức chân dung đó sẽ lộng lẫy như thế nào rồi.

    Vì trong khoảnh khắc thời gian đó, chị không thể nhìn thấy nhan sắc của mình, chính lúc ấy sắc đẹp của chị như toát ra một vẻ đẹp mộc mạc nên thơ, xen kẽ một chút liêu trai huyền bí, nhất là lúc chị ngồi nơi băng ghê nhìn về phía mặt hồ, một cái nhìn thật xa xăm vô định nhưng rất sâu thẳm, như đang cố gắng vét cạn những dòng suy tư trong giấc mơ đêm qua.

    Chính úc ấy tôi không chỉ vẽ tranh mà còn viết cả một bài thơ về khoảnh khắc đó, tôi xin đọc vài câu thơ để chị thưởng thức nhé.

    Luân lấy trong túi cái cellphone và bật lên bài thơ Em đến nơi này. Đọc vài câu trích đoạn

    Còn tôi đến đây

    Với những chiếc lá mùa thu diễm lệ

    Nhe tiếng hồn thương khóc trong lòng

    Và để thấy em ngồi lặng im

    Vét cạn những dư âm buồn trong giấc ngủ đêm qua.

    Duyên lại mỉm cười hơi gật đầu tỏ vẽ tán dương bài thơ ngắn.

    Thú thật với chị chính vì điểm này, nên tôi đã mang giá vẽ ra ngoài công viên.

    Duyên lên tiếng: Nghe anh nói tôi ngượng qua, vì bằng này tuổi đời rồi còn đẹp chỗ nào nữa. Anh cho tôi lên tranh làm gì, anh có thể cho tôi xin bức tranh được không, vì thực lòng mà nói, tôi không muốn  chân dung của tôi lại được anh cất giữ  trong phòng riêng.

    Thế chị muốn tôi trao tặng chị bức tranh. Vậy thì cho tôi xin địa chỉ, tôi sẽ mang bức tranh đến tận nhà tặng chị.

    Duyên ngập ngừng trả lời, địa chỉ nhà tôi rất ngại. Nếu anh thực lòng muốn trao tặng bức chân dung cho tôi, hay là anh mang bức tranh ra ngoài công viên tôi thường hay đi bộ mỗi buổi sáng, khi ấy tôi sẽ gặp anh và xin bức tranh, như thế cò lẽ tiện hơn.

    Luân trả lời: thôi thì như thế cũng được tôi sẽ hẹn chị vào buổi sáng ngày mai tại công viên.

    Câu chuyện giữa hai người đến đó thì cả hai đều im lặng. Cả hai trở lại với tiếng cười nói của mọi người ngồi chung bàn, rồi cùng nâng lý rượu đỏ chúc mừng nhau. Buổi tiệc cứ thế mà tiếp diễn cho đến khi chấm dứt.

    Ra ngoài chỗ đâu xe (Praking) Luân gặp Khoa người bạn họa sĩ thâm giao của mình. Luân hỏi thăm về Duyên người đàn bà kiều diễm ngồi bên cạnh.

    Khoa nói: vậy mà tôi cứ tưởng hai người quen biết lâu rồi, tôi thấy hai người nói chuyện rất thân mật.

    Luân lên tiếng, không như anh nghĩ, tôi mới gặp cô Duyên lần đầu, và tôi cũng hơi tò mò vì Duên cho biết là người chồng đã qua đời, thú thật tôi không biết chồng nàng là ai và vì sao mà ra đi sớm vậy.

    Khoa cho biết.

    À! chồng cô Duyên là nhà thơ Đỗ Trọng, anh đã chết trong đợt con Virus Corona của trung cộng, đang lây lan mạnh mẽ nhất tại tiểu ban California, mỗi ngày cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người dân vô tôi.

    Trong giai đoạn này nhà thơ Đỗ Trọng bị dính Covid 19, ở vào thời kỳ dữ dội nhất khi chưa có thuốc chủng ngừa, anh bị đưa vào bệnh viện và bị hoàn toàn cách ly, ngay cả vợ con cũng không được gặp. Cũng may Vơ và con gái đều không bị lây nhiễm. Vào bệnh viện được một tuần sau thi hay tin anh Đỗ Trọng đã vĩnh viễn ra đi, bỏ lại vợ và con con gái.                                                     

    Chị Duyên nhận được thông báo từ bệnh viện, chị muốn vào thăm nhưng không được, chị Duyên chỉ còn biết âm thầm lo tang lễ cho chồng.

    Do đó sự ra đi của nhà thơ Đỗ Trọng, không được thông báo chia buồn, vì vậy tang lễ diễn ra trong âm thầm ít người biết đến.

     Buổi lễ hỏa táng tại nghĩa trang Oak Hill ngay cả chị Duyên, và cô con gái, là hai người thân duy nhất của nạn nhân, xin phép nhìn mặt chồng lần cuối cũng không được.

    Chị Duyên và cô con gái đến tiễn đưa chồng với một khoảng cách từ xa và phải đeo mặt nạ (khẩu trang) đó là quy định của nghĩa trang.

    Vào thời gian đó tiểu ban Califronia ban hành lệnh giới nghiêm (Stay at home) mọi người không được ra ngoài đường, ngoại trừ những trường hợp khẩn cấp.

    Hèn gì Luân thường nhìn thấy trên nét mặt của Duyên, mỗi lần ngồi trầm tư trong công viên đều thoáng hiện một nét buồn thật xa xăm. Mà Luân phải đặt tên cho sự kiện này là: Người đàn bà vét cạn nỗi buồn.

    Buổi tối hôm ấy Luân trở về nhà trước 11 giờ đêm. Luân ngồi trên ghế sofa với nét mặt trầm ngâm suy tư.

    Bà xã Luân thấy thế vội lên tiếng hỏi có chuyện gì xẩy ra?

    Luân trả lời: À! thật ra chẳng có gì. Em biết bức chân dung người đàn bà anh đã vẽ trong công viên. Bà xã nói: biết chứ… mà sao rồi?

    Hôm nay anh đã gặp người đàn bà này trong bữa tiệc, với một câu chuyện thật buồn. Người đàn bà này tên Duyên vợ của nhà thơ Đỗ Trọng, chồng của cô ấy bị chết trong đợt covid 19 đầu tiên, từ khi vào bệnh viên cho đến lúc hoả táng cô Duyên không được gặp mặt chồng, thật đáng buốn cho thân phận của một con người.

    Hôm nay gặp mặt, qua câu chuyện anh mới biết. Cô Duyên muốn xin anh bức chân dung này.

    Bà xã Luân lên tiếng, chân dung vẽ cô ấy thì trả lại cho người ta là đúng rồi.

    Thì anh cũng định ngày mai đem bức chân dung đến công viên trả lại cho chủ nhân của nó.

    Luân lấy bức chân dung ra nhìn ngắm lần cuối. Càng ngắm bức tranh Luân cảm thấy đầu óc như vẩn vơ nghĩ ngợi về buổi tối gặp gỡ, chàng cảm thấy nó rất mơ hồ như không định hình một cái gì rõ nét.

    Nó trừu tượng mơ hồ như một nỗi buồn gợi nhớ đến bất ngờ, như trong thời gian chinh chiến Luân còn trong quân đội, có những lần hành quân trên miền rừng núi, rồi tình cờ bắt gặp cô sơn nữ, với ánh mắt và nụ cười rất hồn nhiên, bước đi trên đỉnh đồi, men theo con dốc xuống thung lũng một đồi chè xanh tươi thẳng hàng, nơi ấy bóng dáng các sơn nữ đang vui đùa hái chè.

    Đêm đã qua trời bắt đầu hừng sáng Luân thức dậy thật sớm hơn thường lệ, vì sực nhớ hôm nay phải chia tay với bức chân dung mà Luân rất ưng ý.

    Luân cầm trên tay tách cà phê sáng, hương vị thơm ngon quen thuộc của cà phê làm Luân tỉnh thức, húp một ngụm nhỏ Luân đứng ngằm nhìn bức chân dung một lần cuối, gương mặt người đàn bà ngồi vét cạn nỗi buồn trong công viên như hiện ra trước mặt, ánh mắt buồn xa xăm có vẻ liêu trai huyền bí và ẩn hiện một nụ cười mỉm trên nét mặt, cười như không cười, cười như một sự ngạo mạn vào chính thân phận của một con người.

    Luân bước ra khỏi nhà với bức tranh trên tay, nhớ lời đã hứa với bà Duyên, sẽ trao trả bức tranh này cho chủ nhân của nó tại công viên.

    Luân chậm rãi bước vào công viên, đi đến nơi mà chàng đã ngồi đọc sách và dựng giá vẽ bức tranh này. Luân ngồi đúng vị trí cái ghế dài có lưng tựa, Luân dựng bức tranh bên cạnh, trong lúc chờ bà Duyên đến nhận bức tranh.

    Luân hướng tầm mắt về vị tri cái hồ nước nơi Duyên thường ngồi. bầu trời vào chớm thu trong xanh phảng phất một lớp sương mù lãng đãng bay, mặt hồ nước phẳng lặng trông như một tấm gương phản chiếu cảnh vật, hàng cây như ẩn hiện một vài cánh lá đã đổi màu vàng úa phản chiếu ánh bình minh thêm rực rỡ.

    Lẽ ra giờ này bà Duyên đã đến công viên, nhưng hôm nay vì lẽ gì bà Duyên đến hơi muộn, không lẽ vì sự gặp gỡ trong bữa tiệc hôm qua làm cho Duyên ngượng ngùng không dám gặp mặt. Vì hoàn cảnh của Duyên chồng chết đã hơn hai năm nay, biết đâu sự thầm kín trong trái tim của Duyên bị đánh thức bởi một sự hội ngồ đầy tính nghệ thuật.

    Luân chợt thấy sốt ruột định bỏ đi về, thì bất chợt từ cổng chính của công viên

    Luân nhận ra một cô gái còn rất trẻ, người con gái đang vội vã đi vào trong công viên, cô vừa đi vừa nhìn quanh như đang tìm kiếm người nào đó.

    Luân dụi mắt nhìn thật kỹ người con gái này không phải Duyên, tuy nhiên trên gương mặt thoáng có một nét nào đó rất giống với gương mặt người đàn trong bức chân dung mà Luân đã vẽ.

    Cô gái đến trước mặt Luân và nhẹ cúi đầu chào, cô bé lên tiếng

    Cháu chào bác, chàu xin tự giới thiệu cháu là Tú Quyên con gái của Mẹ Duyên, mẹ cháu dặn cháu phải đến công viên gặp bác Luân người có cầm theo bức tranh đang ngồi chờ nơi đây.

    Cô gái nói liên hồi một câu dài, nói như sợ Luân không nhận ra sự quen biết.

    Luân trả lời thì ra cháu là Tú Quyên được sự uỷ thác của mẹ cháu đến đây nhận bức tranh. Thế sao mẹ cháu hôm nay không đến.

    Tú Quyên trả lời vì hôm nay mẹ cháu không được khoẻ nên sai cháu đi thay, rất mong bác nhận lời.

    Ồ! Không sao cả, dĩ nhiên là bác nhận lời.

     Vừa nói Luân vừa cầm bức tranh trao lại cho Tú Quyên, bức tranh đây cháu cầm lấy và cho bác gửi lời thăm mẹ cháu nhé.

    Tú Quyên chỉ chờ có thế nàng vội đưa hai tay nhận lấy bức tranh, và nói lời cám ơn.

    Bức tranh Luân gói bằng lớp giấy báo sơ sài để che bớt sự tò mò của thiên hạ, khi cầm bức tranh trên tay Tú Quyên vội nhìn lướt qua bức vẽ và nàng đã buột miệng

    Trời ơi! Bác vẽ mẹ cháu đẹp qua, cháu tin chắc khi nhận được bức tranh này mẹ cháu rất vui. Cháu thay mặt mẹ xin cám ơn bác.

    Nói xong câu này Tú Quyên ôm bức tranh vội bước về nhà, hình bóng của cô gái xa mờ dần và lẩn khuất vào cây lá của công viên.

    Luân ngẩn ngơ đứng nhìn theo, những con vịt trời từ đâu bay đến cất tiếng kêu vang gọi bầy, khiến Luân như chợt tỉnh.

    Nhìn về hướng hồ nước trong xanh, những con vịt trời bay đến nhởn nhơ vui đùa, một cơn gió nhẹ của một ngày chớm thu thoảng qua, làm lung lay những chiếc lá vàng, cảnh vật trong công viên đã trở lại nguyên thuỷ như không hề có chuyện gì xảy ra. Chỉ duy nhất trong lòng Luân cảm nhận được một nỗi buồn trống vắng.

    Từ nay Luân sẽ không còn nhìn thấy người đàn bà ngồi vét cạn nỗi buồn trong công viên.

    Tế Luân

    Câu chuyện với phần mở đầu về thành phố Milpitas là sự thật, nửa sau của câu chuyện là phần hư cấu, tên các nhân vật trong câu chuyện là sự tưởng tượng của tác giả, viết cho những diễn biến nội tâm của những con người vẫn còn một chút gì dành cho văn học. Trân trọng gửi đến độc giả.

     

  • Lê Tuấn,  Văn,  Văn Thơ

    Huynh Đệ Chi Binh

    HUYNH ĐỆ CHI BINH

    AET Lê Tuấn

              Ngược về thời gian trước năm 1975. Khi chính quyền VNCH còn làm chủ vận mệnh đất nước dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ còn tung bay trên bầu trời trong xanh của Miền Nam tự do.

              Ngoài chiến trường Quân lực VNCH vẫn làm chủ mọi tình hình chiến sự, vẫn bảo vệ từng tấc đất trước làn sóng xâm lăng của Cộng quân.

              Người lính chiến xa nhà với cái radio bé nhỏ mang theo, bật hết volume để nghe đài phát thanh Quân Đội, qua chương trình “Binh Méo – Cai Tròn” một chương trình phát thanh thật vui nhộn, nhưng luôn luôn đề cao tinh thần:

    Huynh Đệ Chi Binh.

              Mở đầu cho tiết mục (Binh Méo – Cai Tròn) luôn luôn là bài hát “Huynh đệ chi binh” của nhạc sĩ Anh Bằng.

              “Huynh đệ chi binh là gì đó anh hai?”

              Một câu hỏi được đặt ra, rồi nhưng câu trả lời tiếp theo.

              “Huynh đệ chi binh là mình cùng chung đời lính,

              thương nhau khác chi nhân tình.

              Từ người Đơ zem cùi bắp rồi thì đi lên Đại tương đều là huynh đệ chi binh.

              Lúc sướng có nhau là HĐCB “Huynh Đệ Chi Binh”

              Lúc khó có nhau là HĐCB.”

              Ý tưởng này không phải dừng lại ở mức độ sướng và khổ, mà nó còn đi xa hơn nữa cho đến tận cùng sự sống chết của người chiến sĩ đó là sự hy sinh ngoài chiến trường.

              Lúc sống có nhau là HĐCB

              Lúc chết có nhau là HĐCB.

             Sự sống chết luôn cận kề với người lính nơi chiến trường, tôi đã chứng kiến rất nhiều những trường hợp, những bối cảnh xảy ra trong lúc giao tranh với địch quân, những người lính gắn bó với nhau như anh em ruột thịt, họ đã thật sự hy sinh cho nhau tại mặt trận, người lính chiến đã quên đi sự nguy hiểm của chính bản thân mình, nhào người lên phòng tuyến phía trước, vượt qua những lằn đạn của địch quân để giải vây cho đồng đội.

              Đôi khi họ đã phải hy sinh chính xương máu của mình hay nhận lấy những thương tích trên da thịt, nhưng họ đã không màng nghĩ đến vấn đề này, bởi vì tình “Huynh Đệ Chi Binh” qúa vĩ đại nó chính là động lực gắn bó những người lính cùng đơn vị liên kết với nhau như anh em ruột thịt.

               Có biết bao những tình huống rất cảm động rất thật, đã xảy ra trong chiến tranh, tình huynh đệ chi binh được đặt lên hàng đầu bởi vì tính thiêng liêng và sự vĩ đại, nó đã hiện diện trong đời lính bất kể ở bên chiến tuyến nào, hay thuộc quân đội của quốc gia nào.

              Huynh đệ chi binh chính là tinh thần của quân đội và chỉ có đời lính chiến mới thể hiện hết được tính chất của tình cảm thiêng liêng và cao thượng này.

              Trong chiến tranh càng khốc liệt bao nhiêu thì tình huynh đệ chi binh càng cao cả bấy nhiêu, bởi vì huynh đệ chi binh là một tình cảm tự nhiên, nó tự sinh trưởng và nẩy mầm trong tâm trí của mọi người lính chiến, nó trở nên thân thiết và gắn bó với nhau, sự gắn bó này sẽ được cộng hưởng thêm lên đối với những người bạn ở cùng chung một tiểu đội hay một đơn vị. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà là một quân đội chính quy, quân đội này đã được thành lập theo tiêu chuẩn quốc tế, bởi vì lịch sử của QLVNCH được bắt đầu bởi hai cường quốc số một thế giới đó là Nước Pháp “French” và Hoa Kỳ “USA”.

              Một ưu điểm mà ít ai để ý đến:

              QLVNCH chúng ta đã thừa hưởng một nền văn minh qúa lớn của hai cường quốc Pháp và Hoa Kỳ. QLVNCH có đầy đủ các quân binh chủng “Hải – Lục – Không Quân“ ngoài ra chúng ta còn sáng tạo thêm những binh chủng đặc biệt cho phù hợp với tình huống của chiến trường như:

              Biệt Động Quân – Nhảy Dù – Thủy Quân Lục Chiến – Thiết Giáp

              Lực Lượng Đặc Biệt – Biệt Kích Dù – Lôi Hổ –

              Người Nhái – Địa Phương Quân, Nghĩa Quân

    và còn nhiều nữa…. ngoài ra chúng ta còn thành lập những đơn vị bán quân sự như:

              Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia –

              Xây Dựng Nông Thôn vân vân.

              Hầu hết quân nhân các cấp đều được đào tạo từ những quân trường theo tiêu chuẩn quốc tế như:

              Trung tâm huấn luyện Quang Trung  

              Hạ sĩ Quan Đồng Đế

              Sĩ Quan Thủ Đức  

              Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt  

              Không Quân

              Hải Quân

              Chiến Tranh Chính Trị  

              Trung tâm huấn luyện Cảnh Sát

              Trường Thiếu Sinh Quân,

              và còn nhiều nữa.

              Mỗi trung tâm huấn luyện chúng ta đều trải nghiệm qua tình đồng đội đó chính là HĐCB.

              Mỗi binh chủng, chúng ta đều thể hiện một tinh thần đồng đội đó cũng là HĐCB.

              Bởi vì: Huynh đệ chi binh là mình cùng chung đời lính, thương nhau khác chi nhân tình

              Sau ngày mất nước 30 tháng 4 năm 1975. Anh em chúng ta những người lính QLVNCH chúng ta đã bị bức tử, bởi bàn cờ chính trị.

              Miền Nam VN đã rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt, cả một quân đội đã bị phân rã, một số lớn thành phần sĩ quan, những người lính ưu tú của quân lực đã phải vào tù, đã phải lưu đày biệt xứ.

              Một số ít chạy thoát ra hải ngoại. Tình HĐCB đã bị quên lãng theo thời gian, cho đến khi chúng ta bắt đầu hội tụ lại trên vùng đất tự do, điển hình nhất là tại Hoa Kỳ, chúng ta bắt đầu tổ chức lại thành hội đoàn, chúng ta bắt đầu thành lập Hội để gợi nhớ lại những binh chủng, từng vang bóng một thời, hay để gợi nhớ lại quân trường xưa nơi chúng ta đã từng thụ huấn.

              Cũng bắt đầu từ đó Tình Huynh Đệ Chi Binh như đang hồi sinh trở lại, tình cảm thiêng liêng này lại có dịp len lỏi vào tâm hồn chúng ta (Những người lính chưa có lệnh giải ngũ)

              Mỗi lần chúng ta tham dự họp mặt, gặp lại những người bạn cùng khoá, cùng lớp, cùng đơn vị và ngày nay chúng ta còn có thêm một điểm đồng thuận nữa, đó là cùng chung một trại tù, cùng ở chung với nhau trong trại tù cải tạo (đây cũng là một loại tình cảm rất đặc biệt và đôi khi rất mật thiết không thua gì tình HĐCB)   

              Thật tình cờ tôi có đọc qua một bài viết ngắn của anh Tôn Thất Đàn, anh kể lại một sự kiện chính anh đã chứng kiến một biểu tượng của tình Huynh đệ chi binh và anh đã viết:

              “Thế rồi trong một lần tham dự ngày “Diễn hành văn hóa quốc tế” 2012 tại New York do “Cộng Đồng người Việt Quốc gia” tổ chức, tôi đã mục kích một cảnh rất cảm động, giữa hai người cựu TSQ gặp nhau trên Đại lộ 5 của thành phố hoa lệ Nữu Ước.

              Đó là một cựu TSQ già tàn phế ngồi trên chiếc xe lăn, trên ngực mang phù hiệu TSQ, đang lăn theo đoàn diễn hành. Trong lúc đó có một cựu TSQ khác cũng mang phù hiệu TSQ trường Mẹ Vũng Tàu, hai người không quen biết nhau, thế mà khi nhận ra nhau qua phù hiệu TSQ thôi, anh bạn kia đã chạy đến ôm chầm cả người lẫn xe lăn của ông ta mà khóc, trong sự vui mừng, mặc dầu hai người không cùng một lớp, không chung một đại đội, chỉ biết xuất thân từ trường mẹ TSQ/VN thì đó là anh em một nhà rồi!

              Tôi cũng được nghe kể lại một câu chuyện như sau.

              Trong một nhóm người vượt biên bằng đường bộ đi từ Tây Ninh VN qua biên giới Miên (Kampuchia) nhóm người này dự định vượt qua biên giới Thái Lan thì không may bị lính Khờ Me Đỏ (thời Polpot) bắt giữ.

              Khoảng 4 người VN bị bắt, trong đó có một người Việt đeo một phù hiệu AET (trường TSQ) trên ngực áo, thật bất ngờ từ trong nhóm lính Khơ Me đỏ, có một người dường như anh ta là cấp bậc chỉ huy, tiến đến bên nhóm người Việt mới bị bắt, anh ta nhìn một cách chăm chú vào phù hiệu AET đeo trên ngực áo của tù nhân người Việt. 

              – Anh ta chỉ vào phù hiệu đeo trên ngực áo tù nhân người Việt, rồi hỏi một cách rất cộc lốc AET.

              – Tù nhân Việt gật đầu.

              –  Đi theo tôi người lính Khơ Me đỏ ra lệnh

              Hai người đi đến một chỗ khuất, người lính Khơ Me dừng lại, một lời nói có vẻ thân thiện hơn phát ra từ bộ mắt lạnh lùng của người lính Khơ Me đỏ.

              – Anh xem này, người lính Khơ Me vừa nói vừa mở ngực áo ra, trên ngực anh có xâm một biểu tượng đó là phù hiệu AET. Anh ta vỗ vai người tù Việt và nói

               – Anh trốn ngay đi, nếu không sẽ bị bắn chết

              Người tù vượt biện người Việt Nam vội bỏ trốn trong nỗi sợ hãi mà quên cả lời cám ơn, người lính Khờ Me Đỏ.

              Họ là hai kẻ hoàn toàn xa lạ không hề quen biết nhau và chắc chắn chưa một lần gặp gỡ, thế nhưng điều gì đã gắn bó họ với nhau, đó chính là tình

    Huynh Đệ Chi Binh.

              Họ đã nhận ra nhau qua phù hiệu AET, một phù hiệu trường Thiếu Sinh Quân của người Pháp, nhưng nó cũng chính là phù hiệu mang một tinh thần (Quốc Tế) cho toàn thể anh em cựu TSQ trên toàn thế giới nhận ra nhau.

              Tôi (Lê Tuấn) viết bài này không có ý định so sánh hay đo lường mức độ tình cảm HĐCB giữa các quân binh chủng hay các quân trường, bởi vì mỗi tổ chức, mỗi quân trường đều có cái hay cái đẹp riêng biệt, tất cả đều có mặt xấu và mặt tốt, sự đối nghịch giữa cái tốt và cái xấu nó cũng như hai mặt của một đồng tiền, nếu thiếu đi hai mặt thì đồng tiền sẽ trở nên vô giá trị.

              Qua bài viết thật ngắn gọn này tôi nêu ra hai trường hợp tiêu biểu cho tinh thần huynh đệ chi binh, tôi thiết nghĩ trong quân lực VNCH không có một đơn vị nào hay một quân trường nào lại thể hiện tình cảm anh em “huynh đệ chi binh” một cách mạnh mẽ và thân tình như anh em cựu TSQ.

              Khi họ gặp nhau ở bất cứ nơi đâu, mặc dù không cùng chung một lớp, một đội hay cùng năm học với nhau, thậm chí có những anh em cựu TSQ dù đã theo học tại các trường TSQ khác nhau, nhưng khi đã nhận ra nhau là một cựu TSQ thì họ đều xem nhau như anh em một nhà.

              Tình cảm huynh đệ chi binh của anh em cựu TSQ/VNCH đã trở nên một truyền thống (Traditional) bất khuất, truyền thống này sẽ không bao giờ thay đổi.

              Trong QLVNCH chúng ta có rất nhiều những truyền thống tốt đẹp, như truyền thống của trường Võ Bị Thủ Đức – Không Quân – Hải Quân hay Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và còn nhiều nữa.

              Tuy nhiên cách thể hiện tình huynh đệ chi binh của các quân trường này mang tính chất cá biệt cho từng khoá hay từng đội, anh em cùng khoá với nhau họ có thể thành lập hội ái hữu riêng để tạo một sự liên hệ trong tình HĐCB, nó không mang tính chất đồng bộ thành một khối như cách thức thể hiện tình cảm của anh em Cựu TSQ.

              Đối với anh em CTSQ dù là binh chủng chủ lực Nhảy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân hay binh chủng Địa Phương Quân.

              Dù là cấp bậc Binh Nhì hay Đại Tướng. Một khi đã xuất thân từ trường TSQ thì đều là anh em, được phân định (niên trưởng) theo năm ra trường, anh em CTSQ luôn luôn trân quý tình cảm thiêng liêng này.

              Đúng như lời bài hát HĐCB.

    -Huynh đệ chi binh là mình cùng chung đời lính, thương nhau khác chi nhân tình.

    -Từ người Đơ Zem cùi bắp rồi thì đi lên Đại Tướng đều là huynh đệ chi binh

              Tôi kết thúc bài viết này ở đây xin gửi đến toàn thể quý vị Cựu chiến sĩ QLVNCH.

              Mắc dù chúng ta đã trải qua trên 47 năm kể từ ngày đau thương 30/4/1975.

    Chúng ta đã già đi theo năm tháng, nhưng tâm hồn chúng ta vẫn còn xanh như màu lá mạ non.

              Tóc chúng ta đã bạc trắng như vôi, nhưng Tình Huynh Đệ Chi Binh của chúng ta sẽ không bao giờ bạc, khối tình vĩ đại này sẽ trường tồn mãi mãi trong tinh thần đoàn kết của tập thể. Cựu Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

    Ngày Quân Lực 19 Tháng 6 năm 2022

    AET Lê Tuấn

    Mừng Ngày Quân Lực VNCH

    Cơn đau che giấu tiếng thời gian

    Tiếng động âm vang những bạo tàn

    Trời tháng tư chuyển dời chiến sử

    Nỗi đau buồn đổ vỡ chen ngang.

    Còn đâu nữa những hẹn hò xưa

    Nỗi nhớ thương thân phận đẩy đưa

    Em có về vấn vương luyến tiếc

    Tháng tư buồn lất phất cơn mưa.

    Tần ngần lòng dạ bỗng bâng khuâng

    Thấy bóng quê hương đến thật gần

    Hoa sứ trổ bông trời tháng sáu

    Nhớ ngày Quân Lực bước phong trần.

    Hùng binh dồn dập bước qua nhanh

    Rợp bóng cờ vàng trời nắng hanh

    Dòng máu anh hùng vang chiến sử

    Mừng ngày Quân Lực bước quân hành.

    AET Lê Tuấn

    Ngày Quân Lực 19 tháng 6, 2022

     

  • Lê Tuấn,  Thơ,  Văn

    Tháng Ba Hoa Táo

    Tháng Ba Hoa Táo

    Hương trời bát ngát cây xanh
    Hồng phai hoa táo, hoa chanh nở rồi
    Tháng ba cây táo sinh sôi
    Cành nghiêng gợi nhớ bồi hồi vấn vương.

    Nhìn em ánh mắt dễ thương
    Tóc buông phảng phất mùi hương tình nồng
    Tháng ba chạm nhẹ nụ hồng
    Mà nghe kỷ niệm bềnh bồng xa xưa.

    Ai mà trách gió giận mưa
    Em về hoa táo lưa thưa nụ đầu
    Sáng nay hoa táo thay màu
    Phấn hương gió thoảng rủ nhau ong về.

    Hương hoa ngọt lịm đam mê
    Trao tình thụ phấn bộn bề đường tơ
    Tình đằm thắm nét ngây thơ
    Mùa xuân hoa táo ngẩn ngơ chốn này.

    Lê Tuấn

    Tháng Ba Hoa Táo PDF File

    PDF: https://vantholacviet.com/wp-content/uploads/Thang-Ba-Hoa-Tao-Truyen-Ngan-Le-Tuan-06-04-22.pdf

     

    Thang-Ba-Hoa-Tao-Truyen-Ngan-Le-Tuan-06-04-22

  • Lê V. Hải,  MỪNG LỄ,  Thơ,  Văn

    TRANG CHÀO MỪNG NGÀY PHẬT ĐẢN – RẰM THÁNG TƯ – NHÂM DẦN, 2022 – Phật Lịch 2566.

    HỒNG  TRẦN

    *

    Thế gian nhiều biến đổi

    Ta chỉ một dạng thôi

    Theo tháng năm tàn lụi

    Mấy ai chẳng ngậm ngùi

    *

    Cõi hồng trần sinh ly tử biệt

    Kiếp nhân sinh nọ ai mãi miết

    Rồi một ngày tay ng buông xuôi

    Về chốn không tranh danh đoạt lời

    Chết sống nào cũng là trả nghiệp

    Chỉ sớm muộn nợ vay tiền kiếp

    *

    Mong tái sinh đừng vương lụy

    Tâm yên bình thoát hiểm nguy

    Vốn dĩ lời chân nguyên Phật

    Để muôn người đạt phúc duyên

    *

                         Hoàng Mai Nhất

    KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN

    *

    Tháng Tư ĐỨC PHẬT hạ phàm trần

    Đem ánh Đạo Vàng cứu thế nhân

    THÁI TỬ ly gia rời tục lụy

    ĐẠT TA cắt ái biệt tình thân

    Tam Quy điều dạy, thay tai kiếp

    Ngũ Giới lời khuyên, nhận phước phần

    Phật Lịch hai nghìn năm sáu sáu(2566)

    Nguyện cầu khắp chốn rạng ngời xuân.

    Phương Hoa – MAY 17, 2022

    Hoa Sen Bảy Bước

    Đi bảy bước hoa sen chớm nở
    Gót hồng trần lan tỏa niềm mơ
    Cội bồ đề, chánh kiến thiền định
    Giác ngộ từ tâm, chuyển hoá cơ.

    Phật pháp kinh thư đã chuyển vần
    Năm châu, bốn biển độ nhân quần
    Thập phương, ý nguyện luân hồi chuyển
    Phật tánh Di Đà, quán tịnh thân.

    Tế Luân

    KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2022

    *

    Mừng Phật Đản, muôn phương thiết lễ

    Cúng dường ngày Nhập Thế Thích Ca

    Thấm nhuần giáo lý Phật Đà

    Tâm bình, thế giới an hòa sống vui

    *

    Mừng Phật Đản hãy nuôi mầm thiện

    Phật xuống đời thị hiện chúng sanh

    Nhân gian mừng đón Cha lành

    Tháng Tư rằm đến, tâm thành dâng sen

    *

    Mừng Phật Đản, ghét ghen buông bỏ

    Ánh đạo vàng sáng tỏa trần gian

    Tại gia thắp nén hương nhang

    Trên cao Phật chiếu hào quang sáng lòng

    *

    Mừng Phật Đản, sen hồng hương ngát

    Tiếng Nam Mô lấn át sân si

    Hồi chuông cửa Phật từ bi

    Âm vơi nghiệp chướng,  xua đi hung tàn

    *

    Mừng Phật Đản, dâng ngàn lời nguyện

    Phật từ bi, Pháp chuyển Trí minh

    Khiến cho kẻ ác lui binh

    Tan đi sân hận, Hòa Bình Thế Gian…

    *

    DUY ANH

    Đại Lễ VESAK 2022

    Chủ Nhật Tuần Này: Kính Mừng Đại Lễ Phật Đản PL 2566. ĐL 2022

    Lời Chúc Mừng

    Một Mùa Lễ Vesak nữa lại về trên trần gian, Phật Đản mang lại bao niềm hân hoan, vui sướng trong lòng những người con Phật và những ai tin vào giáo pháp cứu thoát của Ngài.

    Kính chúc tất cả Quý Vị và Gia Quyến một Mùa Phật Đản: Vạn Sự An Lành, Hạnh Phúc Vui Tươi, Muôn Chuyện Hạnh Thông.

    Thắp sáng ánh đèn trí tuệ trong tâm, noi theo đường Đấng Chí Tôn, để có:

    -Tâm hài hòa, mỉm cười trước sóng gió cuộc đời.

    -Tâm minh tuệ, ứng phó với những biến chuyển thời gian.

    -Tâm siêu nhiên, đối mặt với: Sinh, Bệnh, Lão, Tử!

    -Tâm bình an, vượt qua khỏi mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống, để có hạnh phúc ngay tại trần gian này.

    Có Tâm là có tất cả! Tâm bình, thế giới bình!

    Ý nghĩa ngày Phật Đản

    Phật Đản còn gọi là Quán Phật Hội (hội tắm Phật), Giáng Đản hội (hội giáng sinh) đó là nghi thức tắm Phật. Ngày Phật Đản tức là ngày Đức Phật Thích Ca ra đời.

    Mùa Phật Đản năm nay lại về trong niềm vui của mọi người dân Việt, từ Tháng Tư Đen 75, 47 năm, đang sống lưu vong nơi đất khách quê người, cách xa quê nhà cả nửa vòng trái đất. Hơn ba triệu người Việt hiện ở tạm dung trên các nước thuộc Âu Châu, Úc Châu, Mỹ Châu, đang nỗ lực tổ chức ngày “Đại Lễ Phật Đản, Phật lịch năm 2566” để hòa nhịp với niềm vui chung của nhân loại, trong mùa Phật Đản năm 2022.

    Nhân dịp ngày Đại Lễ, xin ghi lại chút “Lịch Sử cuộc đời Đức Phật” để cống hiến quý đồng hương Phật Tử bốn phương, cùng tìm hiểu về “Chân lý và nguồn gốc ngày Đản Sinh của Đức Phật, hầu lưu lại cho các thế hệ mai sau, nối gót các bậc tiền nhân, duy trì và phát huy Đạo lý cao siêu của Đức Thế Tôn, trong ánh đạo vàng đến với mọi người trên thế gian.

    Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch. Vesak cũng là tên của một ngày có ý nghĩa trọng đại nhất đối với hàng Phật tử khắp thế giới. Đức Phật sinh nhằm ngày rằm, tháng Vesak, vào buổi sáng, trong thành Kapilavatthu (Ca-ty-la-vệ) gần biên thùy giữa đông bắc Ấn Độ và Népan. Ấy là Thái tử Siddatha Gotama. Cha của ngài là Hoàng Đế Tịnh Phạn (Cuddhodana) họ Cồ Đàm (Gotama), và mẹ của Ngài là hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) Ngài tên là Siddhartha Gautama. Ngài mất mẹ rất sớm. Sau khi hạ sanh Hoàng Tử được 7 ngày thì hoàng hậu thăng hà.

    Thái tử sanh ra là một đại hạnh, đại phúc, ơn lành cho tất cả chúng sanh. Dĩ nhiên, đã là Hoàng tử, Ngài sống một cuộc đời vô cùng sung sướng trong cung điện nguy nga, nào biết gì đến cảnh thực ngoài đời. Nhưng ngày qua tháng lại, lần lần trong tâm Ngài tự phát giác sự thật.

    Khi Ngài giác ngộ được rằng vạn vật là vô thường, có rồi không, thành rồi bại, có sinh có tử, có gìa có bệnh. Rằng bao nhiêu vinh hoa, phú qúy, khoái lạc vật chất dẫy đầy trước mắt, chẳng qua là một bã hư vô. Ngài mới nhất định xuất gia, bỏ hẳn thế sự, để đi tìm đâu là sự thật, đâu là tịnh lạc. Năm ấy được 29 tuổi, Ngài từ  bỏ cung điện nguy nga và những sa hoa vật chất của một vị Hoàng tử, không phải vì  thắc mắc băn khoăn riêng cho Ngài, mà chính vì cảnh đau khổ trầm luân của chúng sinh.

    Lần từ biệt ra đi của Ngài đã giũ sạch nợ trần, để đi tìm một con đường giải thoát cho nhân loại. Suốt sáu năm trời, Ngài hãm thân vào cuộc đời khổ hạnh, hy sinh, chịu đựng muôn ngàn đau khổ với một tấm lòng sắt đá, kiên trì, với một niềm tin vô biên và luôn luôn xả thân để phụng sự. Đây là cuộc đời phấn đấu mà sức người phàm khó lòng chịu nổi.

    Rồi một hôm tinh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội bồ đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddhagaya), Ngài tự nguyện: “Dù ràng thịt ta phải nát, xương phải tan, hơi phải mòn, máu phải cạn, ta quyết ngồi nơi này đến khi được hoàn toàn đắc quả vô thượng!” Vào ngày rằm, tháng Vesak, Ngài đắc quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.  Quả này là kết tinh cuối cùng của một lòng tự tin, tự  lực, tự giác, chớ không phải nhờ ở một quyền lực siêu nhiên nào giúp đỡ.  Ngài đã diệt được bao điều chi phối của ngoại cảnh đối với thân tâm, để trở thành thanh tịnh chứng pháp, lãnh hội rõ ràng chân tánh của một sự vật: Ngài đã là Toàn Giác, Ngài đã thành Phật. Lúc bấy giờ Ngài 35 tuổi. Từ đây người ta gọi Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Gotama), một vị Phật trong trường chi vô lượng Phật quá khứ và vị lai.

    Như vậy thì lễ Visak không những là kỷ niệm ngày giáng sinh, mà cũng là ngày đắc đạo của Đức Phật. Khi đã được hoàn toàn sáng suốt và đăc quả Chánh Đảng, Chánh Giác rồi, Ngài gia tâm đi hoằng hoá pháp mầu để rọi sáng dẫn dắt kẻ khác. Được hoàn toàn giải thoát, Ngài gia tâm giải thoát chúng sanh bằng một lối đường Trung Đạo. “Mở rộng cửa chân lý cho những ai muốn tìm chân lý, rót thẳng niềm tin tưởng vào tai những ai muốn tìm tin tưởng.” Đó là câu bất hủ mà ngài đã thốt ra lần đầu tiên, khi bắt đầu sứ mạng hoằng dương đạo pháp của Ngài.

    Đầu tiên Ngài lập ra Giáo Hội Tăng Già chỉ gồm có năm vị Thanh Tịnh Pháp Sư, đó là 5 anh em Kiều Trần Như. Đây là hột giống đầu tiên hết sức nhỏ bé mà Ngài đã gieo, để rồi về sau này nở muôn ngàn đầy khắp bốn phương: Là  Giáo Hội Tăng Già ngày nay, khắp thế giới, một hệ thống tổ chức thật sự  dân chủ xưa nhất trong lịch sử  nhân loại. Khi rải các đệ tử đi hoằng hoá Giáo Pháp trong thiên hạ, Ngài gửi lời khuyên nhủ chư tăng như sau: “Hỡi chư Tỳ Kheo, các con hãy mạnh dạn ra đi, đi vì ích lợi cho chúng sanh, đi vì hạnh phúc an vui cho nhân quần, xã hội, đi vì thương xót nhân loại. Các con hãy đi khắp chốn, ban bố giảng dậy Pháp này là diệu Pháp hoàn toàn. Các con hãy nêu cao đời sống Thánh Đức khiết thanh, luôn luôn hoàn toàn và trong sạch.”

    Riêng phần Ngài, là hoá thân của Đức Độ cao siêu, trí tuệ luôn luôn sáng suốt, đầy lòng nhân đạo, từ bi, bác ái, hy sinh không bờ bến, đêm nghỉ chỉ một giờ. Trong năm mười hai tháng, hết tám tháng Ngài dãi dầu phong sương khắp chốn, không quản gì thân. Ngài tế độ chúng sanh như vậy suốt bốn mươi lăm năm trường.

    Một hôm, khi cảm thấy sức đã kiệt, ngày lâm chung săp đến, Ngài gọi tất cả đệ-tử về và nói: “Kiếp sống thật là ngắn ngủi, Thầy nay tuổi đã già. Thầy sắp xa lìa các con! Từ lâu vẫn nương tựa nơi Thầy.  Các con hãy cố gắng chuyên cần tinh tấn, hãy kỹ càng thận trọng và luôn luôn giữ một lòng đạo đức cao cả, với những tư tưởng trong sạch siêu mẫn, các con hãy giữ gìn bản tâm cho chu đáo. Nhờ tôn chỉ và kỷ luật này, với một đời sống tích cực hoạt động đạo đức, các con sẽ được thoát khỏi vòng sinh tử, tử sanh và chấm dứt được phiền não, đau khổ.  Vạn vật cấu tạo là nhứt dán, là vô thường.  Các con hãy cố gắng lên!

    Năm ấy Đức Phật tám mươi tuổi thọ. Ngài trở về Kusinara, là một làng nhỏ bé xa xôi, nơi đây êm ái và an tịnh. Ngài tịch diệt, thân nằm êm giữa hai cây long thọ (Sala), hôm ấy đúng ngày rằm vào tháng Vesak. Như thế Vesak là ngày kỷ niệm gồm ba sự kiện: Giáng sanh, Thành Đạo, và Tịch Diệt của Đức Phật. Ngày nay Phật tử khắp hòan cầu cử  hành cuộc lễ gồm ba sự tích ấy, với một niềm tin  tuyệt vời và một đạo tâm chơn thành.

    Ngày nay khoa học và văn minh càng tiến bộ, thì Đạo Phật càng được phát triển, vì hầu hết những khám phá trong khoa học hiện nay, thì Đức Thế Tôn đã nói ra cách đây từ 2566 năm về trước! các kinh sách của Đức Phật đã để lại cho nhân loại một kho tàng quý báu. Tất cả đều dựa trên cái Tâm và Trí  của thực thể con người, không ảo tưởng, không thần thoại, cũng không có cái gì là siêu hình, mê tín. Nên nhiều người nhận định, Phật Giáo là đạo sát với khoa học nhất, thì cũng đúng.

    H.G. Wells, là một học giả người Anh đã viết: “Đức Phật là một nhân vật vô cùng giản dị, có Tâm Đạo nhiệt thành, tự lực một mình phấn đâu cho ánh sáng tươi đẹp, một con người sống, chứ không phải là một nhân vật của thần thoại, huyền bí. Bên sau cái bề ngoài hơi ly kỳ thần thoại, mà người đời hay gán cho ngài, chỉ thấy rõ một con người như bao nhiêu vị Giáo Chủ khác. Ngài cũng truyền lại một tuyên ngôn, một hệ thống giáo lý rộng rãi khả dĩ thích hợp cho khắp loài người. Bao nhiêu ý niệm văn minh của ta ngày nay, cũng hòa hợp được với giáo lý ấy. Ngài dậy rằng tất cả cái bất hạnh và phiền não của ta là do lòng ích kỷ mà ra, Ngài đã nhất định không sống riêng cho Ngài, mà phải sống cho kẻ khác, từ đó Ngài sống một cuộc đời siêu nhân trên tất cả mọi người. Xuyên qua trăm, ngàn ngôn ngữ khác nhau.

    Đức Phật đã dậy đức từ bi, hỷ xả gần 600 năm trước Chúa Giêsu ra đời. Đứng về một phương diện nào đó mà nói, ta có thể cho rằng, Chúa với Đức Phật có nhiều chỗ giống nhau vậy. Đối với đời sống thực tại của ta, cũng như đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp ta, Đức Phật đã tỏ ra biết trước.

    Thực vậy, Đức Phật đã nói:

    Ta là Phật đã thành,

    Các ngươi là Phật sẽ thành.

    Vậy mọi người trên thế gian này, nếu có tâm đạo, có ý chí quyết tâm, tu thân, tích đức, loại trừ cái tham, sân, si mà đi theo con đường Đức Phật đã vạch ra, thì cũng sẽ thành Phật, không phải như các huyền thoại khác, lấy tôn giáo để mê hoặc con người, đi tìm một ảo tưởng vô hình. Đức Phật nói đúng, vì chính Phật cũng là một người như ta, nhưng Ngài đã vượt ra ngoài cái khuôn khổ của loài người. để đi tìm lấy một chân lý tối thượng, hầu truyền lại cho con người đi theo con đường Chân, Thiện, Mỹ. Để tiêu diệt cái “Tâm độc ác, cái Trí ngu muội”, trên trần gian. Đem đến cho mọi người được thân tâm an lạc, thanh bình, thịnh vượng, hạnh phúc và có trí sáng tạo.

    Ông Bertrand Russell, một học giả triết gia hiện nay người Anh có nói: “Đức Phật rõ là một nhân vật chủ trương thuyết phi thiên cách cao thâm nhất từ cổ chí kim vậy”. Dựa theo giáo lý cuả Đức Phật, Ông Thomas Paine, một học giả uyên thâm khác đã viết theo lời Phật dậy: “Thế giới là nhà ta, nhân loại là anh em ruột thịt ta, và vi thiện là đạo ta”. Từ hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, Đức Phật há chẳng nói: “Chớ nên làm ác, hãy làm lành, cố gắng lên, cố gắng làm cho tâm ngày càng trong sạch”. Đó là điều mà Đức Phật dạy chúng ta phải làm, chỉ có bấy nhiêu. Và chỉ nhờ có bấy nhiêu mà ta sẽ diệt đươc ba nạn là: Tham ái, sân hận, và si mê.

    Để kỷ niệm ngày Đức Phật giáng trần và cũng là ngày Đắc Đạo sau sáu năm khổ hạnh và 49 ngày  tịnh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddagaya). Hàng năm cứ gần đến ngày rằm tháng tư âm lịch, là toàn thể các tín đồ Phật giáo thuộc các giáo hội trên khắp thế giới, nao nức hân hoan tổ chức kỷ niệm ngày đản sanh. Để nhắc nhở người con Phật, ôn lại những răn dậy tinh hoa của Đức Thế Tôn, làm kim chỉ nam cho đời sống hiện tại cho mỗi người trên trần gian.  

    Mặt khác, tưởng cũng nên nhìn lại lịch sử thế giới, ta thấy bao nhiêu bạo lực độc ác của các đế quốc tàn bạo để nô lệ hóa con người, như gần đây nhất, Nga xâm chiếm Ukraine, Trung cộng đòi chiếm Biển Đông, nhưng tất cả, đã và sẽ lần lượt tiêu tan theo thời gian ngắn ngủi! Chỉ có giáo lý cuả Đức Phật là còn tồn tại mãi mãi, bất diệt nơi tâm hồn của hàng triệu, hàng tỉ người Phật Tử nói riêng và nhân loại nói chung. Mỗi ngày một phát triển trên khắp năm châu. Lạ một điều, giáo lý của Đức Thế Tôn đang được phát triển tột đỉnh, rộng rãi trong lòng các dân tộc văn minh Tây Phương! chứ không phải ở Phương Đông!

    Mừng Đại Lễ Phật Đản Trên Toàn Thế Giới

    Phật Đản là ngày nghỉ lễ quốc gia tại nhiều quốc gia châu Á như Thái Lan, Nepal, Sri Lanka, Malaysia, Miến Điện, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Campuchia,…

    * Đại Lễ Phật Đản Sri Lanka

    Tại Sri Lanka, hai ngày được dành cho việc cử hành Vesākha, việc bán rượu và thịt thường bị cấm và tất cả các cửa hàng rượu, bia và lò giết mổ phải đóng cửa do nghị định của chính phủ. Chim, côn trùng và thú vật được phóng sinh như là một “hành động mang tính biểu tượng của sự giải thoát”, của sự trả tự do cho những người bị giam cầm, bị bỏ tù, bị tra tấn trái với ý muốn của họ.

    * Đại Lễ Phật Đản Ấn Độ

    Tại Ấn Độ, Nepal, người dân thường mặc áo trắng khi lên các tịnh xá và ăn chay. Tại hầu hết các quốc gia châu Á đều có diễn hành xe hoa và nghi lễ tụng niệm.

    * Đại Lễ Phật Đản Hàn Quốc

    Tại Hàn Quốc có lễ hội đèn hoa sen (Yeondeunghoe) rất lớn. Còn gọi (Bucheonim osin nal) có nghĩa là “ngày Đức Phật đến”, bây giờ đã phát triển thành một trong những lễ hội văn hóa lớn nhất của quốc gia. Lễ hội Phật đản diễn ra tại nhiều nơi công cộng, và trên những đường phố. Trưng bày và diễn hành lồng đèn là một trong những chương trình tưng bừng và gây nhiều xúc cảm nhất.

     * Đại Lễ Phật Đản Miến Điện

    Tại Myanmar, ngày Vesak cũng gọi là ngày của Kason. Kason là tháng thứ 2 trong 12 tháng theo lịch Myanmar. Đây là tháng nóng nhất trong năm. Nên trong khuôn khổ lễ hội Vesak, người dân nơi đây, với lòng thành kính, đặt những chậu nước tinh khiết trên đầu đội đến những tự viện tưới xuống cây Bồ đề. Họ tưới cây Bồ đề để cảm ơn giống cây này đã che chở đức Thế Tôn, trong những ngày thiền định trước khi chứng đạo và ước nguyện năng lực giải thoát luôn trưởng dưỡng trong họ.

    * Đại Lễ Phật Đản Thái Lan

    Thái Lan là quốc gia Phật giáo đã 5 lần tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc. Khí trời nóng bức và không mưa, người ta thường bắn pháo hoa với ước nguyện sẽ có mưa.

    * Đại Lễ Phật Đản Trung Quốc

    Tại Trung Quốc, Phật giáo đã có mặt gần 2000 năm. Phật giáo từng là tư tưởng dẫn đường chính cho chính quyền và người dân trong một số triều đại xưa. Lễ Phật đản được tổ chức từ thời Tam Quốc, đã ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội qua nhiều giai đoạn lịch sử. Nhưng ngày nay Phật giáo không còn ảnh hưởng nhiều trong xã hội Trung Quốc, từ khi theo xã hội chủ nghĩa. Người dân chỉ còn biết đến Phật giáo như là một tôn giáo lo ma chay, cúng kiếng, võ thuật… Lễ Phật đản chỉ có thể được tổ chức trong khuôn viên chùa, tu viện và ít được xã hội quan tâm.

    * Đại Lễ Phật Đản Đài Loan

    Phật giáo Đài Loan có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống thường nhật của người dân tại lãnh thổ Đài Loan. Từ năm 1999, ngày Phật Đản đã là một ngày nghỉ lễ quốc gia ở Đài Loan, được tổ chức hàng năm vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5 và trùng với Ngày của Mẹ. Nghi lễ thường bắt đầu với điệu nhảy truyền thống và hát ca khúc Phật giáo. Một bức tượng của Đức Phật kèm theo âm nhạc, được rước vào địa điểm và buổi lễ bắt đầu với phần dâng cúng năm vật là hoa, trái cây, hương, thực phẩm và đèn cho Đức Phật

    * Đại Lễ Phật Đản Nhật Bản

    Tại Nhật Bản, Phật giáo truyền đến từ cuối thế kỷ thứ VI và là tôn giáo chính trong giai đoạn trung và đầu cận đại. Ngày nay, vai trò của tôn giáo ít ảnh hưởng mạnh đến đời sống thường ngày ở Nhật Bản. Lễ Phật đản thường gắn liền với Lễ hội Hoa Anh đào, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi tu viện và trong quần chúng Phật tử.

    * Đại Lễ Phật Đản Việt Nam

    Gần 90% dân số VN theo Phật Giáo, nên Lễ Phật đản được công nhận là một ngày nghỉ lễ (quốc lễ) chính thức tại miền Nam Việt Nam, bắt đầu từ năm 1958, do chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa của chính thể Việt Nam Cộng hòa thông qua.

    Vào ngày này, người dân tự do tưng bừng tổ chức rất nhiều sinh hoạt, đời cũng như đạo. Cúng lễ tại các chùa, kèm theo nhiều chương trình văn nghệ. Ngoài đường phố, hàng đoàn xe hoa nhiều mầu sắc diễn hành. Cờ Phật Giáo, nhạc Phật vang lừng khắp nơi. CS đã lợi dụng sự tự do này, xúi dục tổ chức nhiều cuộc biểu tình, nhằm làm mất an ninh tình hình hậu phương, cũng nhằm bôi xấu “chính thể VNCH đàn áp tôn giáo” trước dư luận quốc tế.

    Sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam năm 1975, cộng sản chủ trương vô thần, nên mọi hoạt động tôn giáo đều bị cấm. CS còn tuyên truyền “VN ta có “Bác Hồ” không thờ, thờ chi những Ông Ấn Độ, Do Thái!” Thì ngày này không còn là ngày lễ quốc gia nữa! Mọi hoạt động tôn giáo đều phải có giấy phép! Mặc dù có giấy phép, vẫn bị công an quấy nhiễu. Đàn áp nhiều nhất, vẫn là các sinh hoạt của Phật Giáo Hòa Hảo.

    Tuy nhiên, những những năm gần đây, ngày Phật Đản được coi là một ngày lễ hội quan trọng, thu hút sự tham gia không chỉ của Phật tử, mà còn là của người dân trên mọi miền của Việt Nam.

    Thấy tình hình, dư luận người dân ngả theo như thế, nên ngày này, cũng nhận nhiều sự quan tâm của nhà cầm quyền CS, thường cử các phái đoàn tham dự các buổi lễ, phát bằng khen.

    Nhiều chùa “Quốc Doanh” trên bàn thờ Phật, còn có tượng HCM! Sư giảng Phật Pháp, còn chen vào những bài giảng chính trị.

    Còn thực tế bình thường, thì mọi buổi lễ Phật đản chung của các huyện, đều có sự tham gia của chủ tịch huyện và các chuyến thăm của chủ tịch mặt trận Tổ quốc, Nếu chùa nào trong hệ thống quốc doanh, còn nhận được sự hỗ trợ kinh phí trong công tác tổ chức Phật đản.

    Ngoài ra vào ngày này, các tổ chức từ thiện của Phật giáo, thường tổ chức các hoạt động thăm hỏi, những người khó khăn, trẻ em mồ côi tại các nhà tình thương, những người già neo đơn không nơi nương tựa. Đây chính là điều quan trọng nhất của Đạo Phật, trong việc xây dựng Đạo của sự Từ Bi.

    Danh ngôn Phật Pháp

    *Về chân lý cuộc đời

    Sau đây là những câu danh ngôn Phật pháp và đời sống giáo huấn con người nhận ra chân lý, lẽ phải, để biết cách sống tốt hơn, đẹp hơn:

    – Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm, do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc.

    – Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ, nhờ nghe và biết chiêm nghiệm, để rồi tu sửa và làm chủ bản thân.

    – Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh, vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình. Nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.

    – Khi ta vui, ta biết mình đang vui và luôn tâm niệm rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi ta đau khổ do một hoàn cảnh bức bách nào đó, ta nên biết nỗi khổ này cũng không thể lâu dài, vì ta biết buông xả.

    – Sự chấp trước của ta ngày hôm nay, sẽ là niềm hối hận cho mai sau, bởi vì ta đã làm tổn thương đến nhiều người, dù có ăn năn hối lỗi, trái tim ta vẫn rỉ máu.

    – Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nỗ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa, khi mọi việc chưa được tốt đẹp, để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực.

    *An lạc trong cuộc sống

    Chìa khóa của sự an lạc trong cuộc sống, chính là biết buông bỏ đúng lúc, những gì không thuộc về mình và trân trọng những gì hiện có. Sau đây là những danh ngôn Phật pháp giúp ta biết cách sống an nhiên, tự tại hơn:

    – Chúng ta nên nhớ khi con người có quyền và tiền trong tay, thì hạnh phúc tinh thần sẽ mất đi. Vì lo sợ mất mát, sợ người chiếm đoạt và sợ kẻ thù, những thứ không thuộc về mình, mà cố nắm giữ, chỉ gây thêm phiền muộn khổ đau.

    – Người Phật tử hãy cho qua hết việc buồn đau, được mất, hơn thua, không gieo oán giận thù hằn, để tâm an ổn, mà sống đời hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

    – Con người sống không thể không có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải là chánh tín nhân quả, được xây dựng trên cơ sở có chánh kiến, chánh tư duy, bằng sự thấy biết chân chính nhờ biết từ bi hỷ xả.

    – Người Phật tử chân chính hãy cho qua hết mọi đam mê có hại đến người và vật, biết phát huy tinh thần giúp đỡ sẻ chia, bằng tình người trong cuộc sống.

    – Chúng ta nên biết, không tranh thì an ổn, không giết không hại người vật, thì an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Người hay giúp đỡ sẻ chia, thì tâm từ bi rộng lớn mà sống đời an vui, hạnh phúc.

    – Người biết đủ, là người giàu có hạnh phúc nhất, vì không thấy thiếu thốn, người tham lam ích kỷ, hà tiện keo kiệt, dù có nhiều tiền vẫn là người nghèo nhất thiên hạ, vì tâm toan tính sợ mất mát.

    Danh ngôn về giá trị cuộc sống

    Những câu danh ngôn Phật giáo với những giá trị sâu sắc dạy ta hiểu hơn về quy luật sống của thế gian. Hoa nở hoa rơi rồi hoa tàn, tiền tài địa vị cũng sẽ tan, cao sang danh vọng rồi cũng tàn.

    – Chúng ta sống phải có niềm tin chân chính về nhân quả thiện ác, do chính mình tạo ra, niềm tin này không phải là tin vào một đấng thượng đế, có khả năng ban phước giáng họa, hay tin vào một điều gì mà mình không hiểu, không biết.

    – Người Phật tử phải có hiểu biết, có yêu thương, có trí tuệ, có từ bi và làm lợi ích cho nhiều người, mà không bao giờ tính toán, so đo, nhờ vậy ta sẽ sống bình yên và hạnh phúc.

    – Chúng ta phải biết buông bỏ những kiến chấp sai lầm và các tạp niệm xấu ác. Nhờ vậy cuộc sống lúc nào bình yên hạnh phúc, trong từng phút giây.

    – Mọi người không nên tiếc nuối về quá khứ tốt xấu, đúng sai mà đánh mất chính mình trong hiện tại, vì ta đang sống hạnh phúc trong từng phút giây của thương yêu và hiểu biết.

    – Người Phật tử khi đến chùa đọc kinh nghe pháp, khi hiểu rõ lời Phật dạy, sau đó mới đem áp dụng vào cuộc sống của mình, để có được hạnh phúc cho bản thân, và đem lại lợi lạc cho gia đình xã hội.

    – Một niềm tin thiếu hiểu biết gây tác hại, ảnh hưởng xấu, làm trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, gieo bất an, khổ não cho nhiều người, thì đó không phải là niềm tin đúng đắn, chúng ta cần loại bỏ.

    *Danh ngôn về triết lý nhân quả

    Những câu danh ngôn Phật pháp về luật nhân quả, răn dạy chúng sanh phải biết tạo nghiệp tốt, để nhận được quả ngọt:

    – Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ không đổ thừa do số mệnh định sẵn, hay có sự an bài của đấng tạo hóa nào đó, mà không vươn lên làm mới lại chính mình, thay đổi hoàn cảnh cuộc sống.

    – Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Đó là cách ăn của chư vị Tổ sư đã thể nghiệm, nên đưa ra pháp tu tương ứng, nhằm duy trì mạng sống chúng Tăng được khỏe mạnh.

    – Chúng ta đừng để tâm chạy theo những mối ưu tư của nó, giống như những người bình thường, chưa biết quán sát hơi thở là gì. Một khi ta đã có chỗ an trú, để giữ con khỉ tâm thức, thì nó ngày càng bớt ngang ngạnh và từ từ bớt rong rủi chạy tìm.

    – Chúng ta chỉ làm một việc duy nhất, là đơn thuần theo dõi và nhận biết hơi thở rõ ràng, thở vô mình biết mình đang thở vô, thở ra mình biết mình đang thở ra. Hơi thở dài hay ngắn là tùy theo khả năng của mỗi người.

    – Ngu dốt là sự không hiểu biết của con người, nên ngu dốt cũng đem tới nhiều tai hại cho bản thân, gia đình và xã hội. Có thể nói, ngu dốt là không có kiến thức, không tin sâu nhân quả, không hiểu biết chân chính về mối tương quan trong thế giới mình đang sống.

    Mong rằng với những câu danh ngôn Phật pháp  trên sẽ giúp cho Quý Vị tìm ra được giá trị cuộc sống và tâm hồn sẽ trở nên an yên, thanh thản.

    LÊ VĂN HẢI

    Ba Bài Thơ Mừng Khánh Đản:

    Chùa làng

     Chùa làng soi bóng hồ sen

    Tháng Ba đom đóm rước đèn hoa đăng

    Rủ nhau đi cấy sáng trăng

    Thoảng mơ tiếng mõ đêm rằm nhặt khoan…

    Giọt chuông thánh thót tam quan

    Nhành mai gọi chú bướm vàng vờn hoa

    Sân chùa tiểu quét lá đa

    Khói nhang trầm mặc, la đà câu kinh…

    Sương vương hồng đóa môi xinh

    Gót tiên đội nắng bình minh lên chùa

    Thềm nào rụng quả táo chua?

    Thị Màu rình rập bỏ bùa áo nâu…

    Về làng hồn tựa vào đâu?

    Mái chùa cong vút xanh màu rêu phong

    Lại đi cấy giữa sáng trăng

    Lại nghe tiếng mõ đêm rằm… nhặt… khoan…

    Hoàng Anh Tuấn

    *

    Trầm Hương Khánh Đản

    *

    Sớm nay trời ửng nắng hồng

    Lời chim hót, tiếng ca trong ngọt ngào

    Hải triều âm dậy dạt dào

    Hỏi ra mới biết Phật vào cõi hương

    Sớm nay nhân thế triều dương

    Tin vui truyền khắp mười phương đất trời

    Vinh quang hạnh phúc cõi người

    Ca tì la vệ rạng ngời pháp thân

    Rằng nghe Linh thoại ngàn năm

    Ưu đàm hoa nở trăng rằm tỏa hương

    Viên thành diệu sử một chương

    Đản sinh Văn Phật ơi hương ơi trầm

    Trời xanh hiện cát tường vân

    Trần gian xuân sắc thanh tân diệu kỳ

    Mười phương một niệm Tam quy

    Chân như hiện bóng từ bi cát tường.

    Hạnh Phương

    *

    Mừng Phật đản

    1.

    Hai nghìn năm kinh sử truyền ghi

    Một sáng tháng Tư đẹp diệu kỳ

    Khắp cõi nhơn thiên bừng tỏ rạng

    Đón mừng Phật đản, đấng Từ bi.

    Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

    Ra đời mở cửa huyền vi nhiệm mầu

    Cứu muôn loài thoát khổ đau

    Đến bờ an lạc dạt dào yêu thương.

    2.

    Hôm ấy Tỳ Ni bỗng lạ thường

    Vô ưu nở rộ ngạt ngào hương

    Líu lo chim hót, hoa khoe sắc

    Thiên nhạc ngân vang mọi nẻo đường.

    Hân hoan nô nức muôn phương

    Mừng bậc xuất thế phi thường giáng sinh

    Ba ngàn thế giới chuyển mình

    Ca Tỳ mở hội cung nghinh thân vàng.

    3.

    Thắp nén hương lòng con kính dâng

    Mừng ngày Phật đản, niệm hồng ân

    Nguyện cùng muôn loại đồng khai ngộ

    Thông điệp Từ bi chiếu rỡ ràng.

    Lưu truyền khắp cõi nhơn gian

    Đạo mầu tỏa ánh từ quang rạng ngời

    Chúng sanh thoát cảnh lầm mê

    Nương nhờ pháp lạc, lối về thong dong.

    Tâm Chơn

    Chúc Mừng Đại Lễ Phật Đản PL 2566. DL 2022

  • Cao Mỵ Nhân,  Văn

    HÀNH TRÌNH CUỘC ĐỜI

    CAO MỴ NHÂN 

    Nếu quý vị chỉ quen biết nhau có một thời, như là thủa ấu thơ, thiếu niên ở cùng xóm, cùng khu phố . 

    Thủa thanh niên, cùng đi học, đi chơi, đi hội đoàn, đi làm hay đi buôn bán vv…

    Tới thủa cao niên thì đi thăm hỏi, lễ lạc vv…

    Tất cả đều  bình thường, có gặp lại hay không cũng chẳng thành vấn đề …

    Song nếu quý vị quen biết nhau suốt hành trình cuộc đời , nghĩa là từ tấm bé đi lên tới cõi già nua, thì thật có lúc buồn ghê lắm, ấy là ta thấy rõ đời nhau, những thăng trầm, không suông sẻ, thậm chí còn đau khổ, thất bại vv…

    Và cái điều không tránh khỏi là cả 2 cùng thấy nỗi bâng khuâng, tàn tạ của nhau lúc về già …

    Không phải là người ta sợ già, chán già, vì già thì không còn đẹp đẽ, không còn tươi vui, mà người ta kịp nhận ra rằng chẳng còn bao lâu nữa, mọi người sẽ từ từ khuất mặt ở thế gian này vậy thôi. 

    Như trên tôi đã trình bầy, thủa thanh thiếu niên, ngoài việc đi học, tôi tham gia rất nhiều hội đoàn …Thoạt thì đi Phật Tử từ tuổi oanh vũ ở Hải Phòng, sau đi Hướng Đạo ở Saigon, rồi vô Caritas, theo đoàn Hội Con Đức Mẹ đi tới các nhà thương chăm sóc bệnh nhân . 

    Chót hết là tham gia Quân Đội VNCH, trong ngành Công tác Xã hội …

    Chưa kể các nhóm nhỏ, hội lớn vv…tôi đều có mặt . 

    Như vậy, cứ nhìn vào sinh hoạt của tôi, quý vị cũng thấy là tôi sống chan hoà thế, thì số lượng bạn bè …đông đảo lắm chứ . 

    Do đó, kể từng giai đoạn lui tới bạn bè, hẳn tôi …ôm đồm quá , nên mệt quá, ấy thế mà tôi …thú vị vô cùng trời ạ. 

    Và vì thế, tôi mới có dịp chứng kiến những phút giây vinh quang cũng như  tủi nhục của kiếp người, nhất là thời gian tôi sống trong đại tộc KaKi của…tôi. 

    Tôi thuộc lòng từng chi tiết một những gì xẩy ra với mỗi cá nhân đặc biệt, hay từng đơn vị nhỏ mà tôi mặc nhiên hiện diện, ở gia đình quân nhân các cấp trong thành phố, ngoài các trại gia binh, hay tới tận cùng núi non, sông biển, đất lở, đồng lụt vv…

    Đôi khi không muốn nhớ lại, nhưng những sự việc chưa rời xa lắm, lại hiển hiện trước mắt …cả một quá khứ miên man tiếp nối …cứ khiến mình nhớ thương vời vợi. 

    Hình như trong lòng tôi, tôi chưa muốn ai phải từ giã cõi đời, nếu như lý luận của quý cụ bị phiền hà, bực bội, thì mỗi lần tôi tỏ vẻ tiếc thương bạn văn cũng như bạn …võ , quý cụ lại  chép miệng : 

    ” Chết phải rồi, nếu ai cũng sống, đất đâu mà chứa …” 

    Sau khi đi tù cải tạo về, tôi tiếp tục lối sinh hoạt của tôi, chỉ có thay đổi nghề nghiệp cũ, là không còn đại tộc KaKi cho tôi bay nhẩy như thủa phục vụ ở Bộ Tư Lệnh QĐI/ QKI. 

    Nhưng tôi vẫn nay thăm nhà này, mai thăm nhà khác, những gia đình quân nhân các cấp mà tôi được hân hạnh quen biết trước cuộc đổi đời 30-4 -1975. 

    Đến nỗi tôi chưa cảm thấy đói, lại còn được huynh đệ chi binh hỏi thăm xem tôi đang sống cách nào, mà cứ lạc quan , mặc dầu ông xã tôi qua Mỹ đã ” biệt vô âm tín “. 

    Tôi và 4 con tôi không thể kể khổ than nghèo được, khi ai cũng biết : ” nhà đó có chồng ở Mỹ, tụi nhỏ có cha ở Mỹ, thì làm sao thiếu thốn được chứ ” . 

    Rồi đào lý bốn phương, chi lan tỷ muội, tức là bạn văn của tôi, cũng luôn chứng tỏ thơ phú tri âm tri kỷ thân tình … 

    Tôi than là than theo cái kiểu bình thường, làm lụng nhiều quá thì kêu mệt, tôi khóc là vì bằng hữu hay hỏi thăm những chuyện …bá vơ. 

    Thế nên tôi bỗng giận ông Thiên quá, ông không để huynh đệ chi binh, đào lý bốn phương tôi được sống an bình, ít nhất mỗi người đủ 100 năm cho đúng tiêu chuẩn ngài Thiên đã ấn định, ông Thiên lại cứ bớt xén một số tuổi tác, bởi cảnh cơ khổ, hoặc bất trắc vì bịnh hoạn hay tai nạn xẩy ra. 

    Khi tôi 40 tuổi thì quý nữ sĩ trong hội thơ Quỳnh Dao đã gấp rưỡi hay gấp đôi số niên tuế của tôi rồi …

    Tôi luôn là cây gậy của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội khi bà còn ở Úc Viên Saigon. Tôi theo bà đi thăm vị này,vị nọ như quý cụ Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Đông Xuyên, Bàng Bá Lân …vv. 

    Tôi không biết thủa ” phương phì ” ( đương thì ) của quý khách Úc Viên xưa thế nào, chứ thực tại hồi đó, quý vị đã là những lão ông, người thì lụm khụm, người còn phi xe đạp tới nhà nhau bình văn thiên hạ . 

    Và rồi lần lượt ra đi Tây Trúc khói sương. ..

    Nữ sĩ Mộng Tuyết mở album ra,  hình ảnh cũ, có cụ Đông Hồ, và vài vị tên tuổi, vẫn còn phong thái ung dung… đã mãn phần. 

    Nơi album của nữ sĩ Vân Nương hồi đám cưới, chú rề là  luật sư Lê Ngọc Chấn tri phủ, sau này làm đại sứ VNCH ở Luân  Đôn và Tunisie, nhị vị phù rể là 2 thi sĩ danh tiếng thời tiền chiến: Huy Cận, Xuân Diệu . 

    Tôi kéo thời gian lùi về hiện đại một thế hệ ( 10-15 năm ), tôi bắt gặp một album của anh họ tôi, đại tá Biệt Động Quân Cao Văn Uỷ, thì nhị vị phù rể là 2 nhạc sĩ ; Nguyễn Hiền và Nhật Bằng  tên tuổi ở 2 thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà, tới cả khi cùng đi tị nạn ở Hoa Kỳ đầu thập niên 90 thế kỷ trước , anh tôi đại tá Cao Văn Uỷ thì ở Úc .  

    Nay thì chẳng còn ai trong số quý vị vừa nêu trên … ở cõi đời này nữa. 

    Tất nhiên rồi, làm sao sống mãi được… vì quý vị đã trên tám , chín mươi trở đi. 

    Song kể như thế vẫn chưa rõ ý, điều tôi nêu ra, phải có một hình ảnh cụ thể cơ. 

    Một người lạ, không quen , chỉ biết thôi, vì nếu không biết thì làm sao kể nhỉ ? 

    Chuyện nhà thơ trung tá Hoàng Ngọc Liên, đối với tôi, thì rõ quá rồi, nhưng khi ông 30, tôi còn mấy năm nữa mới 20 . 

    Trong suốt thời gian trung niên của thi sĩ Hoàng Ngọc Liên, cùng một loạt văn thi sĩ khác, tôi thấy quý ông hào hoa phong nhã … không kịp thở nữa . 

    Quý vị ấy cũng sống bận rộn hết mình kiểu như tôi, nhưng sự kiện khác, như Thế Hoài, Hoàng Ngọc Liên bận rộn nơi đoàn quân Mũ Đỏ, rồi văn nghệ lai rai…

    Sau 1975 cộng thêm mỗi người 12 năm tù cải tạo. Khi trở về thành phố, mỗi thi sĩ ” lớn” một xe đạp cao hay mini, tuỳ theo gia đình có xe chi thì xài xe đó, nhị vị tới tìm tôi ở Câu lạc bộ Dưỡng sinh… vì tôi về sớm nên đã kiếm ra việc làm huấn luyện viên Dưỡng Sinh rồi . 

    Thế là chúng tôi đi xơi canh bún bình dân ở vệ đường, vậy mà tôi đòi trả tiền, quý vị không cho …2 thi sĩ tá 5 trước mặt tôi đã bị CSVN bóc hết những gì gọi là phong cách cũ …ngó tội  nghiệp lắm . 

    Nhưng chúng tôi gặp lại nhau, thì tưởng như người nhà thất lạc đã về, nên niềm vui cứ chan hoà . 

    Như tôi trình bầy trên, ông Thiên chẳng có thì giờ ngó ngàng đến 2 vị thi sĩ đàn anh của tôi, thời gian sau thì Thế Hoài thất lộc bên quê nhà, Hoàng Ngọc Liên qua Mỹ theo diện HO . 

    Trung tá Hoàng Ngọc Liên lênh đênh trên vài tiểu bang miền đông, rồi qua Sacto lưu lại cũng khá nhiều năm, nay diện bích ở Oregon, với gia đình một trong 2 cô con gái mà ông mang theo được, ông đã bước gần tới cửa thiên đường . 

    Chao ơi, viết riêng về nhà thơ trung tá Hoàng Ngọc Liên toàn cảnh cuộc đời thì phải …3 tập, 2 cho nhị vị phu nhân, còn 1 cho tất cả hoa hoa bướm bướm quanh ông, cả lúc đương thời danh vọng lẫn khi thất thế . 

    Mỗi lần kể chuyện đào lý chi lan, tôi thường đi lạc, anh Thân Kính của tôi là một hình ảnh tổng hợp nhiều kiếp nhân sinh gộp lại, khiến tôi không muốn để một kẽ hở nào cho việc than trách sự trống vắng hay thiếu sót bóng dáng những nhân vật, đã có dịp thân thiết trong văn chương hay ngoài cuộc đời mình. 

    Cuối cùng , tôi có  được vốn liếng về thế thái nhân tình ngày nay, là điều tôi rất vui mừng, hạnh phúc, bởi  tôi .đã chắt chiu tình cảm của anh trong nhiều hoàn cảnh cuộc đời …tôi giữ lại mãi mãi tình thân thương hiếm quý này … 

             CAO MỴ NHÂN