• Minh Thúy

    RỪNG THU THAY LÁ

    Đang ngồi ngắm mấy bông hoa sáng nay mới nở búp thật đẹp, sau thời gian bôn ba đi Walmart, Home Depot lùng ít cây về trồng, bỗng nghe phone reng, Thuận vào nhà bắt máy, đầu dây bên kia tiếng nói vui tươi trong trẻo của cháu Vũ gọi sang từ Việt Nam

    – Con đây …dì có khỏe không?

    – Ờ… ờ… con và mẹ có khỏe không?

    – Dạ khỏe hết dì, con báo dì tin vui là đã mua được căn nhà khá tươm tất, mấy hôm nay dọn dẹp đồ đạt, con tìm thấy hộp thư ba làm thơ về dì nhiều lắm nhưng con giấu mẹ sợ người buồn..hi..hi…ai ngờ ba con có thời …thích dì ghê ha.

    Nói xong cháu cười hồn nhiên, hỏi năm ba câu thêm rồi xin gác phone vì đang bận, hẹn lần sau nói chuyện nhiều hơn.

    Thuận thẫn thờ nhìn ra vườn nhưng hình như không thấy gì trước mắt, tâm hồn chị thoáng bị giao động vì Vũ đã vô tình gợi lại giấc mơ xưa trở về thật gần như mới ngày nào…

    Hồi đó Thuận đang học trường Nữ Thành Nội lên lớp 10 (1977) thi đậu vào trường Nông Lâm Súc để được lãnh $18 cũng như 18 ký gạo mỗi tháng trong hai năm bổ túc văn hoá, đến lớp 12 được thi vào ngành. Trường có những khu vực đất đai, học sinh vừa làm vừa lao động lúc ra Quảng Trị, Đông Hà, lúc các vùng chung quanh ra sức trồng khoai sắn.

    Thuận gặp Tú học chung lớp, những lúc đi lao động trồng rau hay cuốc đất, Tú thường đem theo phần ăn trưa hai ổ bánh mì lo thêm phần chị, gặp công việc nặng bạn đỡ đần gánh gồng cho chị luôn.

    Dần dà hai người trở thành đôi bạn thân thiết. Thỉnh thoảng rủ nhau học bài chung với bạn khác ở tận ngã Nguyệt Biều, Thuận và Tú đạp xe lên con dốc gập ghềnh khó đi, nhiều đoạn phải xuống xe dẫn bộ. Con đường có những đoạn trông như khu rừng, cây lá um tùm, đôi bạn dừng chân ngồi nghỉ dưới bóng mát của buổi nắng hè, nhưng đến mùa thu lá đổi màu nhìn thật thơ mộng. Tú vốn có tâm hồn thơ thẩn, mơ mộng của tuổi thanh niên mới lớn, có thứ tình cảm mơ hồ lâng lâng cảm giác êm đềm mỗi lúc đi bên Thuận, nên đã đặt tên con đường là “Rừng Thu Thơ Mộng” gợi trao chút ý tình nhẹ nhàng và cũng để tạo kỷ niệm khi đi trên con đường này. Lúc ấy Thuận cũng mến bạn nhưng cả hai như “tình trong đã ngỏ mặt ngoài còn e”

    Sau 75 cuộc sống dân miền Nam bị đảo lộn, nhà nào cũng đói rách tả tơi, buồn rầu, chán nãn và lo sợ. Thuận đang tuổi dậy thì, trái tim vừa hé mở niềm tin yêu cuộc sống, thì đã bị hụt hẫng theo thời thế, đôi bạn tựa vào nhau tìm sự an ổn phần nào về mặt tinh thần, điều tự nhiên của tuổi học trò đơm chút bông hoa tình cảm đầu đời. Đôi bạn cố gắng học hành cho đến khi tốt nghiệp lớp 12 chuẩn bị thi vào ngành.

    Năm 1979 ba và các anh chị đi vượt biển được tàu Tây Đức vớt, năm sau qua Mỹ do anh đầu bảo lãnh. Gia đình bị công an đến nhà tra khảo nhiều lần. Mẹ Thuận bán lẹ nhà giá rẻ bèo cho cán bộ vì biết nếu không bán được sẽ bị tịch thu. Nửa gia đình còn lại lặng lẽ đi tàu đêm vào Sài Gòn. Thuận ngơ ngẩn chia tay bạn, Tú đến sân ga nhìn “chuyến tàu hoàng hôn” lần cuối nếm nỗi buồn ly biệt.

    Vào Sài Gòn còn lại mấy chị em dưới sự cấm đoán của Ba viết thư về căn dặn “không ai được lập gia đình, để chờ ba bảo lãnh”. Bóng thời gian đi qua lẹ làng. Thuận nghe ngóng tin tức bạn bè, được biết Tú bị động viên đi thanh niên xung phong bên Campuchia. Thời điểm này có buồn cũng đành giấu trong lòng nhìn thẳng cuộc sống thực tế, khi mà dòng người ồ ạt tìm cách chui tàu trốn thoát VC. Cả một miền Nam tang thương đói khổ chẳng thấy tương lai. Anh kỹ sư, ông bác sĩ , thầy giáo đồng lương chật vật. Nhiều trường hợp cũng nhắm mắt chọn con buôn, tiệm vàng chẳng cần tình yêu, chỉ mong được vào làm rể tựa ơn mưa móc.

    Năm 1984 cả nhà qua Mỹ theo diện đoàn tụ. Thuận đi học lại trường college, sau đó làm hãng điện tử. Công ăn việc làm tạm ổn định và cũng yên bề gia thất. Chị bắt đầu nghĩ về Tú, người bạn tốt đã giúp đỡ, chia sẻ rất nhiều nơi chốn học đường năm xưa trong giai đoạn khó khăn, bằng cách liên lạc nơi các bạn cũ. 

    Một chiều nhận thư từ Đào (cô bạn chơi chung nhóm) báo hung tin Tú đã chết, bạn kể tỉ mỉ… Sau khi đi nghĩa vụ hai năm về, Tú có việc làm ở bưu điện Quảng Nam, lập gia đình và có bé trai đầu lòng một tuổi. Năm sau Tú được thuyên chuyển về bưu điện Huế, chuyến cuối cùng anh nhắn vợ vào thăm, đi chơi lần cuối trước khi ra Huế. Chuyến xe chạy trên đèo Hải Vân, trên đường trở về thì tai nạn đau thương xảy ra, xe bị lao xuống vực thẳm. Tú chết tại chỗ, vợ bị chấn xương nặng, riêng cháu bé được thoát chết nhờ văng ra mắc kẹt trên nhành cây.

    Thuận sững sờ theo bao nhiêu ngày đêm khó ngủ, nhờ Đào tìm cách liên lạc với vợ Tú để biết thêm tin tức. Cuối cùng Thuận liên lạc được với Loan (vợ Tú), đã bị liệt cả người nằm một chỗ, đang ở nhà ngoại trên vùng Nam Giao. Giai đoạn này Thuận đã sinh được hai cháu trai, cuộc sống cũng âu lo đủ điều, nhưng hai tấm ảnh Loan gởi qua đã làm xao động tâm tư Thuận quá nhiều. Một tấm hình hai vợ chồng lúc mới cưới xứng đôi đẹp lứa, một tấm hình cháu trai khoảng ba, bốn tuổi ngồi kề đầu giường mẹ với cái bánh sinh nhật, do bác (anh của Tú) cho. Loan nằm ngoảnh mặt nhìn con cười. Thuận không ngờ, nhìn Loan khi bị bịnh, già gấp đôi số tuổi và nhan sắc xinh đẹp cũng biến đi đâu mất, chẳng tìm thấy lại nét như tấm hình kia. Thuận bị ám ảnh về lẽ vô thường theo thuyết nhà Phật, cuộc đời có đó rồi chia lìa, hạnh phúc rồi khổ đau. Sao mà quá ngỡ ngàng,,.Tú ra đi nhưng còn để lại người vợ thật thương đau, Thuận cảm thấy choáng ngợp và tim bị đè nặng khi đối diện với sự thật…Mảnh ký ức lãng đãng đi về từ góc kín trong tâm hồn, từ trái tim có lẽ đã bị bụi thời gian phủ mấy lớp, nay được vén nhẹ bức màn cho thấy hình ảnh sân trường, những buổi trong lớp học, những giờ đi lao động, người thanh niên tên Tú cao ốm, nét mặt thanh tú hiền hoà. Những buổi cả nhóm đi học chung, những buổi vào mùa thu đạp xe ngắm lá vàng, Tú thường nói “lá thu thì đổi sắc nhưng hồn thu muôn đời vẫn dạt dào trong tim Tú”, người thanh niên thích đàn hát và mê thơ văn, giờ đây đã an giấc nghìn thu….

    Một tuần trôi qua …Thuận mất ngủ vì suy nghĩ quá nhiều, chị chia sẻ câu chuyện này với chồng và chị em mình, mọi người càng sững sờ cảm xúc dâng nghẹn. Quang (chồng Thuận) thúc giục vợ giúp đỡ thực tế, các anh chị cũng đóng góp chung, chị thực hiện ngay công việc gởi về số tiền lớn. Thuận đọc được câu danh ngôn của Robert Southey “No distance of place or lapse of time can lessen the friendship of those who are thoroughly persuaded of each other ‘s worth (không sự cách biệt về không gian hay thời gian nào có thể làm yếu đi tình bạn của những người thực tâm bị thuyết phục bởi giá trị của nhau).

    Nghĩ đến Loan hoàn cảnh nằm một chỗ, tuổi còn trẻ giống như mình, hạnh phúc đến quá nhanh rồi đi, nỗi thương tâm ám ảnh hoài Thuận cần phải cố gắng giúp đỡ hơn nữa. Xứ Mỹ ai mới qua rất dễ bị xa hoa vật chất mê hoặc, vợ chồng Thuận chẳng ham muốn điều gì. Chồng chị xuất thân từ dưới làng quê thuộc con nhà nghèo học giỏi, thi vào đại học tổng hợp có điểm cao miệt mài bốn năm, nhưng khi tốt nghiệp khó kiếm việc, được anh chị Cả lo cho vượt biên, tới đảo làm thông dịch viên và dạy Anh văn. Qua Mỹ học nghề Car repair and Check mock, Quang chỉ muốn cơm cá kho kiểu đồng quê chẳng hề biết hàng quán, Thuận sống giản dị không đua đòi với ai, chị tận dụng coupon sale cắt từ báo quảng cáo thực phẩm, chưa hề đi xe mới vì chồng biết sửa xe. Đời sống giản tiện hết sức nhưng chồng chị luôn cổ động giúp hoàn cảnh của Loan, nên chị vẫn đều đặn thực hiện. Dần dà các anh chị em của Thuận cũng quen luôn với Loan, anh này gởi xe lăn, anh kia về VN xây mồ mã đều ghé thăm Loan.

    Trở về Mỹ kể lại cuộc sống của Loan thật xót thương, càng làm Thuận tiết kiệm hơn trong cuộc sống để tiếp viện thêm. Khi các con lên tám lên mười, trong buổi cơm nghe chuyện ba mạ kể về dì Loan, các con nói hớt

    – Tội dì Loan mẹ ơi, mẹ gởi thêm tiền nữa đi. Thuận nghe con nói rất xúc động, nhưng cố làm bộ mặt tỉnh bơ

              – Gởi thêm nữa thì bớt phần gạo, các con phải ăn cơm ít lại có được không?

    – Được chứ mẹ, con bớt lại một chén

    Cả hai con cùng nhao nhao nói làm chị phải phì cười khi nhìn nét mặt ngây thơ hồn nhiên, biết thương người thật đáng yêu.

    Hơn hai mươi năm Thuận vẫn giữ tình bạn thân thiết với Loan, bòn nhặt chia sẻ tiền bạc, cũng như cổ động tinh thần bạn vững lên. Dần dà Loan đã ngồi được xe lăn, được đẩy ra ánh sáng nghe chim hót, phơi nắng hồng, nhìn thấy bông hoa, cây cỏ xanh mướt trong khu nhà vườn thoáng rộng. Bé Vũ học rất giỏi, đó là nguồn an ủi động viên lớn nhất đối với Loan. Thuận cố gắng thêm để cháu Vũ đi nốt con đường học vấn, hầu sau này cháu có nghề nghiệp vững chắc bảo bọc cho mẹ. Ông trời vẫn còn một góc tình thương dành cho những cảnh đời bất hạnh, nay cháu Vũ đã thành giáo sư đại học dạy môn Anh Văn trường sư phạm.

    Còn nhớ lúc Minh (con đầu của chị) tốt nghiệp trung học vào trường UC San Diego học ngành Biology and Chemistry, Minh rất nhanh nhẹn, từ từ quen giờ giấc học hành và sinh hoạt chung quanh. Mấy tháng hè cháu không về nhà, thường gọi phone hỏi mẹ

    – Mẹ còn giúp dì Loan không? Nên giúp đi mẹ, ở đây con đủ trả tiền nhà, tiền ăn, mẹ đừng gởi thêm cho con nữa. À mẹ ơi! Nho nơi đây $4.99/1lb có đắt không mẹ? Chị thấy con có máu hà tiện giống mình cũng bật cười nhưng khuyên con

    – Cứ ăn đi con, mắc cũng mua ăn cho đủ chất trong người, khi đó mới lấy sức học được.

    Cháu lại khoe tiếp

    – Mẹ ơi con xin được các việc lặt vặt kiếm tiền, mùa tới mẹ không cần lo, con đủ khả năng trả tiền nhà (hùn chung đám bạn), và tiền ăn.

    Thuận không yên tâm hỏi gặng con

    – Con lo dồn tâm trí học, làm việc gì kể mẹ nghe xem

    – Con làm bốn job lận, tiệm sinh tố ba tiếng buổi trưa, một tiếng job dẫn chó đi ra ngoài, một tiếng đọc truyện cho cụ già Mỹ, cuối tuần giữ một cháu trai.

    – Trời ơi con làm vậy thì giờ đâu học nữa, mẹ đủ sức lo cho con tiền ăn ở mà

    – Không sao đâu mẹ, con học được mà, mẹ dư giúp dì Loan tiếp nhé

    Nghe con nói Thuận muốn ứa nước mắt. Nhớ lúc các con ở với mình, vợ chồng thay phiên nhau chở con học trường Việt ngữ Văn Lang trên San Jose, các con học giỏi được phần thưởng cuối mùa, trường lại thiếu giáo viên nhờ các con dạy tiếp. Khuôn mặt Minh và Việt non choẹt mới mười sáu, mười tám tuổi, các em nhỏ gọi “Thầy” thật mắc cười. Các con tự học, Thuận chỉ biết chăm lo bồi dưỡng, mỗi tối gõ cửa phòng đem sữa, trái cây gọt sẵn nói vài câu ngọt ngào khuyến khích.

    Thế rồi Minh chuyển qua University of Michigan, Ann Arbor, mượn tiền trường học, nay đã tốt nghiệp bằng dược sĩ làm trên San Francisco. Việt (con trai thứ nhì) vào trường UC Berkeley học ngành Public Health, ngày ra trường cháu tự động tìm tòi lá cờ Việt Nam Cộng Hòa thân yêu dán lên mũ đội. Làm việc vài năm Việt nhảy qua New York theo công việc Solutions Architect (build software).

    Thỉnh thoảng các con gọi phone nói chuyện đều hỏi câu

    – Dì Loan nay sao rồi mẹ? có cần con cho tiền để mẹ gởi không?

    – Không cần con, mẹ có tiền mà, nhưng bây giờ con trai Dì Loan dạy học có lương cao bảo đảm lo đầy đủ cho dì Loan rồi, không sao đâu con.

    Đến nay các con của chị đều có công ăn việc làm ổn định, cháu Vũ (con của Loan) cũng đã mua nhà thay đổi chỗ ở cho mẹ Loan thoải mái hơn. Nghĩ đến các con và cháu Vũ, chị thấy lòng nhẹ nhõm, niềm vui lâng lâng tràn ngập. Bao nhiêu mùa thu đi qua, bao nhiêu lần thay lá nở hoa tiếp nhận xuân hạ, nhưng hồn thu vẫn còn đó, vẫn ghi hình ảnh ngày nào có đôi bạn đạp xe trên con dốc cao ngắm lá vàng rơi, dẫu rằng rừng thu đã thay lá bao nhiêu lần theo thời gian….

    Minh Thúy Thành Nội

  • Minh Thúy,  Sinh hoạt VTLV

    Chiều Nhạc Mùa Thu & Lễ Tạ Ơn

    Có những ngày mưa lạnh trước đây nhưng tới Chủ Nhật (19 tháng 11/2023) thì trời nắng ấm. Dòng người sinh động, đường phố đông đúc và lòng người cũng rộn ràng chuẩn bị đón mùa lễ Thanksgiving sắp tới. Và chúng tôi cũng không ngoại lệ.

    Vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày 19 tháng 11/2023, tại Quán Cà Phê Lovers nằm trên đường Aborn thuộc thành phố San jose. Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt do ông Lê văn Hải làm chủ tịch đã tổ chức “Chiều Văn Nghệ : Tình Khúc Cảm Tạ & Em Không Nghe Mùa Thu”, và cũng để mừng sinh nhật các thành viên VTLV sinh trong quý 3 (tháng 10,11,12 ); đồng thời giới thiệu 3 tác phẩm mới của nhà văn Chinh Nguyên viết bằng Song Ngữ (English-Vietnamese ): Please Come In …( Vào Đi Tình Ơi …! ), Anti- Authoritarian Handbook (Cẩm Nang Chống Độc Tài – Dịch từ sách tác giả Phạm Đoan Trang) và Thorn In The Heart (Anh Ngữ), tạm dịch “ Bụi Gai trong tim “.

     Chỉ hơn 3 giờ chiều mà quán Coffe Lovers đã đông đúc.  Khoảng gần 200 khách, trong số đó có sự hiện diện của các phóng viên, nhà báo cùng những tên tuổi nổi tiếng sinh hoạt trong cộng đồng. Tôi gặp những người quen như ca sĩ Thu Nga, ca sĩ Đồng Thảo và đặc biệt có sự hiện diện của nhà thơ Lưu Hồng Phúc phụ trách chương trình “Thi Ca Hương Thời Gian” trên làn sóng của đài Radio Sài Gòn ở Dallas.

            Hình ảnh các Ma Soeur dẫn đoàn em nhỏ tuổi độ từ 3 đến 5 dự góp phần trong mục văn nghệ, thật là điều quý hoá và vô cùng cảm kích. Nhóm “Tuổi Trẻ Hải Ngoại” do cô Thanh Loan và thầy Thái Phạm đảm nhiệm. Cô Thanh Loan là khuôn mặt đại diện tuổi trẻ nơi hải ngoại, lanh lẹ thông minh, nhiều hoài bão, chọn cách sinh hoạt hướng dẫn, truyền đạt thế hệ trẻ nói tiếng Việt lưu loát, giữ gìn và lưu truyền ngôn ngữ mẹ trên quê hương xứ người.

    Nhóm văn nghệ “Sài Gòn Nhớ” do chị Thuý Nga đảm trách. Chị là ca sĩ có giọng hát rất hay, chuyên về dòng nhạc tiền chiến. Cùng với chị là một số ca sĩ địa phương điêu luyện với những bản nhạc đi vào lòng người.

    Buổi lễ bắt đầu qua những nghi lễ chào cờ Mỹ, quốc ca VN và phần tưởng niệm do anh Hoàng Thưởng hướng dẫn chương trình thật trang trọng.

    Kế tiếp ông chủ tịch Lê văn Hải có đôi lời chúc vui trong mùa lễ. Ông phó ban ngoại vụ tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng giới thiệu ba tác phẩm của cựu hội trưởng Chinh Nguyên. Nhà văn Chinh Nguyên lên sân khấu phát biểu tâm tình: “Sau những lần nói chuyện với Cha Lý qua Zoom, ông thấy ngài nay đã già yếu, chịu đựng những cơn bệnh của tuổi già, sau những năm sống trong lao tù để tranh đấu trực diện với Cộng Sản đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam mai sau. Hiện tại Cha Lý đang đau nặng không đầy đủ thuốc men và sống cô đơn tại nhà dòng Công Giáo Huế”. Nhà văn Chinh Nguyên sẽ dùng tất cả số tiền ủng hộ, bán sách chuyển về tận tay Cha Lý.

    Cũng xin nói qua về Chủ tịch Lê văn Hải của VTLV, và cũng là chủ nhiệm báo Thằng Mõ. Ông luôn luôn rất hào phóng với bất kỳ buổi tổ chức nào tại quán Cà Phê Lovers. Mỗi người khách tham dự nhận được một vé uống nước free và Ticket sổ xố trúng thưởng. Ngoài ra, ông còn điều hành nhóm Mõ Nhân Ái và phát cơm cũng như quà cho người vô gia cư đều đặn hàng tháng nữa.

    Quan điểm và ước mơ của Văn Thơ Lạc Việt là “Tiếng Việt Còn, Nước Việt Còn” để có thế hệ tiếp nối mai sau. Trong tinh thần này thầy Thái và cô Thanh Loan cùng chung một hoài bão, nên đã góp tay thực hiện.

    Các em trong nhóm “Tuổi Trẻ Hải Ngoại” tuổi vừa độ trăng tròn hát Dân ca Ba miền, Ghé Bến Sài Gòn, và những bài về mùa Thu với cung cách trình bày rất điêu luyện duyên dáng.

    Phần văn nghệ đầu tiên với hình ảnh rất dễ thương, Ma Soeur đệm đàn guitar, các em nhỏ mặc đồng phục áo đỏ lên hát tiếng Việt rành rọt những bài yêu Cha, quý Mẹ do các Ma Soeur dạy dỗ tập luyện, được mọi người chụp hình và vỗ tay nhiệt liệt.

    Đặc biệt, ban hợp ca gồm 4 chị em nhỏ Gia Đình Màu Tím trình bày nhạc phẩm “Lá Thư Gửi Thiên Đường” quá tuyệt vời! Tất cả các em nói tiếng Việt rất lưu loát không thua gì người lớn.

    Những giọng ca của nhóm Sài Gòn Nhớ đã được khán giả nồng nhiệt tán thưởng và làm cho chương trình thêm phong phú.

    Kế tiếp là phần sổ số có thưởng thật hào hứng. Sau cùng phần mừng sinh nhật của các là thành viên của VTLV có ngày sinh nhật trong ba tháng cuối năm; kể cả khách đến tham dự có chung tháng sinh nhật cũng được mời lên phát quà và cắt bánh chung vui.

    Phút cuối nhà văn Chinh Nguyên lên báo cáo tổng kết số tiền bán sách  vượt quá 4 số, chứng tỏ sự phát triển văn học và tình nghĩa của mọi người qua nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tấm lòng biết ơn đến sự hy sinh của Cha Lý đã vì dân tộc VN mà đứng lên đấu tranh.

    Bế mạc chương trình bằng những nụ cười tươi vui rộn ràng thân mật. Nụ cười mà mọi người luôn mong giữa cuộc đời này; nhất là hội trưởng Lê văn Hải luôn hằng muốn được thấy nụ cười thân ái và đoàn kết của tất cả mọi người.

    Xin cám ơn hội trưởng của VTLV, anh Chinh Nguyên, thầy Thái, cô Thanh Loan, anh Hoàng Thưởng, chị Thuý Nga, các em nhỏ, em lớn, các ca sĩ cũng như ban nhạc đã phối hợp tổ chức để chúng tôi được thưởng thức giọng ca, niềm vui trong không khí hoà nhã, thân mật.

    Bên ngoài trời bắt đầu se lạnh, hồn thu dịu vợi, bóng thu man mác như đang chào đón mùa lễ Tạ Ơn. Tôi cảm tưởng như mình đang ở một thiên đàng nơi trần thế.

    Minh Thuý Thành Nội

    Mùa Lễ Tạ Ơn 2023

  • Minh Thúy

    Giữ Trọn Tình Quê

    Lời phi lộ

              Kính thưa quý đồng hương Sịa.

              Trong niềm cảm xúc MT muốn viết đôi điều về tổ chức “Hội Ngộ Đồng Hương Sịa Hải Ngoại Lần Thứ 5” tại Bắc Cali như cất một kỷ niệm thân thương quý giá. Vì là dâu Sịa, chưa hề biết hoặc về thăm Sịa, nên cần nhờ ông Google chỉ lối, nhưng không thấy và không hiểu về nhiều làng có đặc điểm chi, nên đã viết trong sự hiểu biết hạn hẹp.

            Bài này chỉ viết theo cảm xúc riêng tư của mình. Xin quý đồng hương đọc trong sự hoan hỷ

                                Giữ Trọn Tình Quê

              Cuối tháng hai chú Lê Hữu Thọ (em chồng) dặn tôi nếu có phone người lạ vùng SF nhớ mở lên nghe. Thì ra anh Thuận sinh hoạt chung với tôi nơi “Văn học cỏ thơm”, tôi chỉ biết chứ không quen. Anh T mời tôi làm MC cho đại hội Sịa sẽ mở đầu tháng 7. Tôi được biết 3 người bạn thân cùng là lính VNCH, cùng đi tù nơi Ái Tử, Bình Điền, có nguồn gốc con dân Sịa đứng ra tổ chức. Các hội ngộ ĐHS Hải Ngoại 1, 2 & 4 tổ chức ớ Nam Cali, Hội Ngộ 3 tổ chức ở Arlington Dallas (TX).

              Đáng lý một ông cố vấn tổ chức kế tiếp kỳ 5 tại Bắc Cali, nhưng năm 2020 bị trình trạng Covid-19 xảy ra, 2022 định thực hiện thì ông bị mổ tim cần dưỡng bệnh. Ba người bạn xin phép tổ chức và được khuyến khích. Tôi cũng phân vân vì thường MC phải đủ điều kiện dáng dấp, trẻ đẹp, ăn nói hay, mà mình thì đã già và chỉ có con zero. Kế tiếp trưởng ban gọi nhắc lại vai trò MC và muốn tôi hứa một tiếng để ban tổ chức yên tâm, tôi cũng thắc mắc tại sao không mời người chuyên làm MC, anh nói “chỉ muốn dân Sịa, anh em cây nhà lá vườn mình làm cho vui, gắng giúp một tay chứ trong 3 năm vừa qua dân Sịa từ giã cõi đời nhiều lắm. “Câu nói sau như sự nhắc nhở” cuộc đời ngắn ngủi, mọi sự đều vô thường” đã gây sự xúc động nên tôi nhận lời vì biết phần nghi lễ, giới thiệu quan khách đã có cố vấn đảm trách, phía văn nghệ chỉ giới thiệu người hát thì cũng đỡ lo.

              Mạ chồng tôi là con quan Thượng Thư Nguyễn Viết Song (sau này, các đài truyền hình Huế có đến phỏng vấn con cháu và chụp hình ngôi nhà). Mạ lấy chồng gốc Sịa tên ba Lê Hữu Đãn, cha chồng là ôn Lê Hữu Hàm (thường được gọi là ôn Quản Hàm), ông nội chồng là cố Lê Hữu Hiệu làm quan dưới triều Nguyễn. Nghe trong nhà kể lại thời đó được tin mật báo cho biết ôn Lê Hữu Hàm và ba Lê Hữu Đãn có tên trong danh sách sẽ bị VC thủ tiêu, nên gia đình chạy trốn lên Huế, phần ba Đãn làm việc trong ngành thông tin, đổi đi nhiều nơi nên chọn đất Huế sinh sống từ đó.

              Ngày xưa mạ là hoa khôi trường Đồng Khánh, tiểu thư đài các hiền thục, khi về làm dâu mạ chồng gốc Sịa, được bà nội dạy nữ công gia chánh, nên mạ giỏi giang không thua ai. Mạ sinh con, hầu hạ ba mạ chồng nơi căn nhà trên đường Mai thúc Loan hướng ra cửa Đông Ba.

              Tôi lấy chồng xứ Sịa, nhưng chưa hề biết Sịa và về thăm Sịa. Hồi xưa có thấy xe đò “Huế-An Lỗ -Sịa” đậu bến xe Nguyễn Hoàng, giữa đường Thượng Tứ và Kỳ đài Phu Văn Lâu, thỉnh thoảng nghe bạn bè hay nói làm đày “con ni Sịa hí” câu nói quen miệng chứ tôi cũng không hiểu ý, có lẽ chê hỉ? Hay là ví theo câu “Ui cha Sịa! Láo thiên láo địa láo từ bên Sịa láo qua… Nội Thành” nếu ngày xưa tôi hiểu và đã lấy chồng Sịa thì sẽ trả treo lại “Nhất Huế nhì Sịa” đó tề.

              Khi gia nhập vào gia đình nhà chồng, tôi thường nghe mấy O em chồng, hoặc chồng tôi kể lại “mỗi lần có tế làng hay cúng giỗ, thường đi theo ông Nội về Sịa ăn uống no nê, hoặc lúc ba làm ngành thông tin, thỉnh thoảng chở mấy anh em về thăm bà con, ở lại ngôi nhà ông Nội xây để con cháu về nghỉ ngơi vào dịp mùa hè, hiện nay ngôi nhà vẫn còn, cho con cháu người làm giữ dùm và hương khói mồ mả tổ tiên.

              Sau 75 có cơ cực mới hiểu bà con xứ Sịa sống rất giàu tình nghĩa. Dù nơi đâu cũng thiếu thốn tả tơi, nhưng ở Sịa còn có mảnh vườn trồng rau trái, khoai sắn. Nhiều lần ông xã tôi và chú Thọ đạp xe về làng, bà con cắt bầu bí, mướp ngọt gởi theo, hoặc thỉnh thoảng họ đem khoai sắn lên thành phố tiếp tế, mạ chồng níu tay mời ở lại dùng …bột mì nướng, nhưng O chú, dì, dượng nhất định không ở lại, bảo về cho kịp chuyến xe đò, nhưng ai cũng hiểu ngầm bà con tránh, sợ tốn miếng ăn của gia đình đông con thiếu thốn. Nghĩa cử đó cả đời không quên, anh em trong gia đình nhắc nhở hoài, nhắc để biết đền đáp mỗi dịp Tết đến hoặc những lúc bà con đau yếu bệnh hoạn.

              Tôi tìm hiểu về đất Sịa, nhờ ông Google đưa đường dẫn lối trên các websites, rất muốn biết đặc điểm của các làng, nhưng tìm chẳng thấy, đành đại khái đôi điều:

              “Sịa là thị trấn của huyện Quảng Điền, nằm ở phía Bắc Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế 30 km theo hướng Đông trên Quốc lộ một. Sịa là vùng quê trù phú với bao giá trị văn hoá lâu đời mà nay vẫn còn được lưu lại ở làng Khuông Phò và một số làng khác như Thủ Lễ, An Gia, Thạch Bình, thuộc huyện Quảng Điền. Đó là những di sản viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm như các sắc chiếu, gia phả, bằng cấp giá trị vô cùng”.

              Làng Sịa có gốc gác quan quân và vua chúa. Ngày trước, vua Lê Thái Tông vào Nam dẹp giặc Chiêm Thành ở Thuận Hóa và Quảng Nam khi trở về Bắc, khu vực Sịa vua giao phó cho một số quan quân tình nguyện ở lại khai canh. Thế là có Khuông Phò, Thủ Lễ, Tráng Lực. Từ ba làng chính này, sau này Sịa phát triển thêm một số làng khác. Khi Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam đã thay các ngài khai canh. Đời hậu Lê dựng nghiệp, vua Lê Thánh Tông lấy một bà họ Nguyễn làng Tráng Lực. Nghe ông bà kể lại, bà này xinh đẹp, cốt cách quý phái, dáng dấp thanh tao, sinh được một thái tử khôi ngô, tuấn tú… Vì vậy dân làng Sịa mới có truyền thống văn hóa, sống có khuôn phép, lễ nghĩa, đạo đức. Cuộc sống của dân làng sung túc, buôn bán phồn thịnh “Làng Thủ Lễ – thị trấn Sịa- huyện Quảng Điền là một vùng đồng bằng gần với phá Tam Giang. Lịch sử của làng Thủ Lễ gắn liền với lịch sử ra đời của vùng Sịa”. Các công trình dù lớn hay nhỏ cũng đều là sự đóng góp, xây dựng của dân cư từ những buổi đầu lập ấp dựng làng. Nơi đây có ngôi đình làng Thủ Lễ, là biểu tượng sức mạnh của một làng quê giàu truyền thống văn vật với sự đoàn kết tình làng nghĩa xóm, đã giữ gìn nếp sống tốt đẹp. “Sịa nổi danh là một vùng quê trù phú, văn vật, với biết bao giá trị văn hoá mà cho đến nay vẫn còn ngời sáng”

              Theo sử sách của làng, Thủ Lễ có nghĩa là “giữ lễ”, họ có cuộc sống về tinh thần, văn hoá rất là phong phú. Hàng năm, làng tổ những ngày lễ tế như tế làng, cúng cô hồn không nơi nương tựa diễn ra trong 3 ngày đêm. Tế trời đất thánh thần cầu nguyện mưa thuận, gió hòa, dân làm ăn ra, sống an lành hạnh phúc. Tế các bậc tiền nhân có công với làng nước để dạy con cháu sống phải biết ơn với tổ tiên theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Ngày xưa đời các cố, hai bên nội ngoại như ông Lê Hữu Hàm, ông Hồ Đăng Sao ăn mặc chỉnh tề cúng tế thể hiện sự tôn trọng việc làng nước. Thêm vào các sinh hoạt nhân gian: hò giã gạo, hò mái nhì, vè rất được lòng dân ưa chuộng. “Hiện nay làng có 14 họ tộc, những ngôi nhà thờ họ được con cháu giữ gìn chu đáo, nhiều họ còn có cách làm hay để giáo dục con cháu giữ nếp nhà bởi làng có truyền thống giữ lễ. Sịa có rất nhiều nhân tài đỗ đạt vào làm quan như ông Trần Hữu Khác sinh làng Thạch Bình, năm 27 tuổi đậu bằng tiến sĩ dưới thời Tự Đức, và 54 người thuộc làng Thủ Lễ được làm quan dưới triều Tây Sơn. Đó là điều hãnh diện cho làng Thủ Lễ có 2 đền Văn Thánh và Võ Thánh. Đình làng Thủ Lễ có lối kiến trúc độc đáo nhà cổ, được công nhận di tích quốc gia. “Sịa nổi danh là một vùng quê trù phú, với nhiều giá trị văn hoá mà cho đến nay vẫn còn sáng ngời”. Tâm tánh con người thì hiền lành thật thà, có nếp sống đạo đức nhân hậu, đặc biệt những con dâu Sịa giỏi việc buôn bán, bếp núc giỏi việc gia đình, khéo tay làm đủ món nem tré, chả tôm, chả lụa, cho đến bánh trái nữ công gia chánh đều hoàn hảo. Sở dĩ tôi biết vì nhìn qua bà mụ, bà nội bên chồng là…tái mặt vì mình không được một phần của thế hệ xưa (tìm hiểu tài liệu qua bài viết của cô Bùi Kim Chi và Diên Thống)  

    Trở lại chuyện tổ chức Đại Hội Sịa Kỳ 5.

            Buổi họp đầu tiên anh Hoá xin địa chỉ email và số phone để liên lạc làm việc chung. Buổi thứ hai trưởng ban cần tìm người thủ quỹ, chỉ định, yêu cầu nhưng không ai nhận, anh than thở “tiền ủng hộ gởi tới rồi không biết giao ai”, thế kẹt nhờ tôi, cuối cùng tôi cũng xuôi tai nhận làm thủ quỹ.

              Trưởng và phó ban bắt đầu in thiệp, dùng địa chỉ nhà tôi gởi đi khắp nơi và trên tấm thiệp ghi luôn số phone của tôi. Nghe mấy anh kể lại truyền thống của 4 kỳ đại hội trước do 3 ông trưởng bối (trong đó có chú Trực bà con nhà chồng tôi), đặt ra phương châm là: không bán vé, không nói giá tiền, tùy bà con ủng hộ. Kết quả những lần trước rất phấn khởi dư được số tiền khả quan dùng làm việc cứu giúp anh em Thương phế Binh, hoặc cho “Cây Mùa Xuân” bên quê nhà, bây giờ đại hội kỳ 5 cũng phải đi theo đường lối đó. Tôi là người luôn ăn chắc mặc bền, tính chuyện thực tế rõ ràng trong cuộc sống khác hẳn với thơ văn thì luôn buộc gió thả mây. Từ khi in thiệp mời, có nhiều người hỏi giá vé trên diễn đàn hội Sịa, anh trưởng ban Ngô Hóa trả lời hiền lành thật thà “Mời bà con về dự, đừng hỏi chuyện tiền bạc, tôi sẽ không nhận tiền của ai hết …” Ôi trời! không biết bữa đó anh có uống lộn thuốc hay có men rượu không?!!! tôi vừa đọc xong là mặt tái xanh cỡ màu nước biển, miệng muốn á khẩu, tự dưng thấy hồi hộp lo âu vô cùng.

             So sánh ngày trước giá đặt tiệc chỉ khoảng $25, $30 hay hơn một tý nơi các vùng khác, kinh tế thời đó cũng sung túc, bà con làm ăn khấm khá nên được nhờ. Vật giá tại bắc Cali nổi tiếng đắt đỏ nhất, sau vụ Covid -19 bùng nổ, đến nay đã có 4 nhà hàng đám cưới, tiệc tùng đóng cửa, chỉ còn lại một nhà hàng Dynasty. Kinh tế khủng hoảng, bà con thất nghiệp, vật giá leo thang kinh khủng. Ban tổ chức đã đến chọn đặt loại trung bình $65, chưa kể phần mua rượu bỏ lên bàn, như vậy giá chót bèo lắm cũng phải $75 một ghế ngồi. Thôi thà mất lòng trước được lòng sau, “đứa cháu dâu này xin lỗi chú Trực…phải vượt rào đi lối khác thôi, chỉ mình con …sai trái chứ BTC đàng hoàng thật thà lắm. Con vô cùng xin lỗi cả những tiền bối khác, ai tha thứ thì nhờ, ai ghét thì chịu, dù giờ này chú đã yên giấc nghìn thu, nhưng con vẫn mong được chú…chấp nhận.

              Tôi nhảy vào diễn đàn lên tiếng:

              – Anh Hóa nói chi nghe như ở Chùa rứa? Hôm trước đặt mỗi bàn là $650, dù tui không thể ủng hộ thêm, nhưng tui cũng phải trả phần ăn của mình chớ, nếu anh không nhận $ thì tui không đi mô nghe, mà anh không nhận lấy tiền mô trả nhà hàng?

              Ông trưởng ban có vẻ mắc cỡ trả lời:

              – Nói đến tiền bạc Hóa ngại ngùng lắm, không muốn đề cập tới.

             Tôi mắc cười nghĩ thầm “Ui…dzậy thì chết cha ngộ dzồi, mấy ông tổ chức hiền lành mở miệng không ra, thì thôi để mình tui …quậy vậy, ai biểu kêu tui làm thủ quỹ …”

              Từ đó mỗi ngày tôi nhận tiền tới tấp, xa gởi check hoặc qua zelle, gần nhắn đến nhà lấy. Phone gọi liên tục, bình thường tôi không mở phone lạ, nay mở ra đúng toàn bà con Sịa.

              Gia đình đầu tiên là anh Phan Gia Hòa ghi tên 22 người.

       Ngạc nhiên và ngầm thán phục tôi hỏi anh

              -Răng anh dụ mấy cháu nhỏ chịu đi tài rứa?

    Anh cao giọng

              – Không đi mà được à, nơi chốn ông cha nó sinh ra, gầy dựng nuôi chúng nó nên người, phải đi để biết tông biết tổ, anh tuyên bố trước để chận đứng “không được đứa mô đi chơi xa trong khoảng thời gian đó, phải có mặt đi dự hội Sịa”.

              Tôi nghe vô cùng kính nể lối sống trọng tình trọng nghĩa của anh, có được phước báu đàn con cháu vô cùng hiếu thảo với ba má. Thời gian ở VN, nhà anh chứa biết bao nhiêu gia đình có diện HO qua Mỹ từ Huế vào, được tá túc nhà anh cho đến ngày đi, ngày cả người không quen, chỉ biết dân làng Sịa đã vào lập nghiệp vùng Qui Nhơn từ lâu, cũng được ở nhờ qua bà con giới thiệu. “Hữu xạ tự nhiên hương”, tiếng tốt đồn xa, cho đến bây giờ mọi người vẫn thường nhắc ân tình quý báu năm xưa.

              Kế tiếp gia đình anh Hồ Đăng Lăng ủng hộ 22 người, khỏi nói về gia đình anh và chị Nguyệt thì ai cũng biết. Tuy làm ăn phương xa đến đất Sài Gòn, nhưng anh chị luôn hướng lòng nơi quê Sịa, về thăm và đóng góp rất nhiều việc đại sự cho đất Sịa, nên được khắc tên để dân làng ghi ơn. Qua Mỹ anh chị lại càng thiết tha hơn về quê cha đất tổ, quyên góp hàng năm trong việc cúng tạ trời đất của dân làng.

              Gia đình con cháu chú Hồ Lang ghi danh 22 người, rất vui vẻ náo nức mong chờ ngày họp mặt bà con Sịa, hăng hái làm tài xế đón đưa đồng hương từ các tiểu bang xa về.   

              Gia đình con cháu ba Lê Hữu Dãn 25 người. Rể Anh làm trưởng ban văn nghệ và MC, con gái Tịnh Tâm trưởng ban tiếp tân, con trai Lê Hữu Thọ đưa đón phi trường và xe đò Hoàng, dâu Minh Thuý làm thủ quỹ, góp một bàn tay chung vai gánh vác lần này.

              Cũng kể luôn gia đình cố vấn Trần Quỳ, gia đình O Diệu Thanh & chú Bùi Miều cũng hăng hái ghi danh 1 bàn.

              Co lần, người con trai gốc Sịa email riêng cho tôi, muốn ghi danh thêm 2 khách nữa, gởi zelle liền $600 nhưng dặn tôi dấu tên, vì ngày đại hội cũng là ngày Anniversary 58 năm của ba mạ, yêu cầu xếp bàn chung dành surprise 2 người khách, nên tôi ghi trên list là “cháu Sịa”.​ 

              Từ xa những tiểu bang Virginia, Boston, Orlando, Washington DC, Massachusetts, Indiana, TX, Seattle WA…v..v… các chú bác, anh chị em ghi tên tham dự đông đã ủng hộ rất hậu hỷ, cũng kể thêm hầu như mọi người đều nâng giá cao hơn so với phần đặt nhà hàng nữa. ​​Ngoài ra còn các chú, O, anh chị không tham dự, gởi tiền ủng hộ rất nhiều. Thật vô cùng cảm kích những tấm lòng đậm đà tình đồng hương trong nghĩa cử đẹp.

              Nhờ vai trò thủ quỹ mà tôi quen được rất nhiều O, Chú gọi phone hỏi thăm “rứa con là con của ai?”, “Dạ là dâu Sịa”. Được biết có nhiều cố vấn và ban xã hội của xứ Sịa được tổ chức quy mô dù người ở Nam Cali, người ở Houston, người ở Boston… v..v..nhưng vẫn liên kết chặt chẽ làm việc chung.

              Từ xa chú Võ Minh, anh Nguyễn Hữu Lợi, chị Như Khuê, Lê Quyên, chị Hoàng Thị Nga, anh Trần Đại Bản, chị Ngọc Khánh, em Võ Quỳnh Phương & Huy Thái, anh Nguyễn Khoa Hoạt, Lê Thành, Hoàng Vũ Khiêu & Mỹ Lệ, ghi tên tham dự đã ủng hộ rất hậu hỷ, cũng kể thêm hầu như mọi người đều nâng giá cao hơn so với phần đặt nhà hàng nữa. ​​Ngoài ra còn các chú, O, anh chị không tham dự, gởi tiền ủng hộ họ và tên như sau: Phan Gia Nhuận, Ngô Chương, Nguyễn Bá Chẩn, Lê Ngà, Phan Gia Quýnh, Phan Thị Hoa, Nguyễn Đạt & Ngô Thuỳ Dương, Phan Văn Lập & Nguyễn Thị Ái, Lệ Chi & Đặng Chiêu, Trần Thị Thước & Trần Thu Phương, Nguyễn Đức, Lê Nam & Trần Thị Mừng, Bành Kim Lê & Tuyết Mai, Trần Đình Sắc & Nguyễn Kim Chiến, Võ Tuyết Thanh, Trần Thị Hoà (Tâm), Ngô Thị Gái, Gia đình Ngô Bé, Nguyễn Kim Chiến, Trần Đình Sắc, Bành Kim Lệ, Bành Thị Tuyết Mai, Thái Quang Minh, giờ phút cuối Lê Quyên, Thái Lương Trinh, Thái Như Khuê, Võ Minh & Hoàng Kiều Nga không dự được cũng ủng hộ. 

              Thật vô cùng cảm kích những tấm lòng đậm đà tình đồng hương trong nghĩa cử đẹp.

    ​​          Nhờ vai trò thủ quỹ mà tôi quen được rất nhiều O, Chú gọi phone hỏi thăm “rứa con là con của ai?”, “Dạ là dâu Sịa”. Thỉnh thoảng chú Hội bắn qua chọc, chú Tô, chú Thẩm gọi phone khuyến khích bày vẽ, Chú Minh thư thăm hỏi kèm check, chị Như Khuê chuyện trò bằng email, anh Lợi tâm sự chuyện đời, anh Bành Kim Lệ nhận bà con, cùng làng thơ, đọc thơ cho nghe, chưa kể các em các cháu bắn tin chuyển tiền, bà con gọi ghi danh tham dự …thiệt là vui và bận rộn.

              Trong vòng 2 tháng đã có hơn 200 người chuyển tiền. Nhìn kết quả đã giúp tôi bớt bị stress, ổn định tình thần trở lại, cùng cố vấn Trần Quỳ, anh Thuận đến nhà hàng Dynasty deposit tấm check, lòng yên ổn nhẹ nhõm khi đã trả hơn 2/3.

              Lúc thuê tầng dưới của nhà hàng, BTC dự trù 200 người, không ngờ số ghi tên cứ tăng dần tới 250 mọi người đều lo chỗ chật chội ngồi ép không thoải mái. Cho đến khi con số lên gần 280, BTC bắt buộc phải điều đình với nhà hàng, xin phép dời lên lầu. Quy luật nhà hàng phía trên lầu yêu cầu trên 28 bàn, và may mắn đêm đó không có hội đoàn nào tổ chức, nên được chấp nhận. ​Đến nay đã lên 30 bàn, ai nấy thở phào nhẹ nhõm nhìn nhau cười rạng rỡ.

              Bất ngờ một ngày có tin không vui: thím Võ Minh ở Boston bị té gãy xương, gia đình ghi danh 4 người gồm chú thím, Võ Đạo và em gái, nay cancel. Mọi người ai cũng buồn trước tin bất ngờ này. Chú Võ Minh thông báo và ủng hộ số tiền đã đóng. Nhận thấy tấm lòng chú thím quá tốt, cộng thêm sự rộng rãi của con trai, trong lúc thím đang bệnh nên BTC quyết định trả lại $ cho con trai, chỉ nhận $ của Chú Minh.

              Điều này đã khiến tôi có nhiều cảm xúc, nhất là được biết chú thím ăn trường chay, và cảm động trước tấm lòng hiểu thảo của Võ Đạo (con trai chú).

              Từ tin tức này này tôi làm bài thơ, đưọc nhà thơ đồng hương Quang Hà họa lại, cho vào khung thơ trao tặng chú thím Võ Minh đúng kỷ niệm 58 năm ngày cưới. 

    Trong hội Sịa có bác Trần In năm nay đã 98 tuổi thọ là điều quá quý và hãnh diện cho làng Sịa. Ông xã tôi kể “bác rất thân với ba từ bên Sịa, đã từng làm ông mai giới thiệu cô M, nhưng không thành. Vào Sài Gòn cũng thân thiết qua lại, bác nhớ hết tên anh em lớn trong gia đình mình”. Tôi thấy kính trọng vô cùng, nên hứng khởi sáng tác bài thơ Thất Ngôn Bát Cú, nhưng nghĩ chỉ một bài thì không nhân danh hội Sịa, nên gọi anh Thuận (thi sĩ chuyên làm thơ Đường Luật) họa lại, nhờ ông anh BT làm tranh thơ, tôi sang lớn mua khung bỏ vào, làm quà tặng bác trong ngày đại hội,

    Lòng tôi sung sướng khi được đóng góp chút tình riêng không đụng chạm tới quỹ của hội. Các anh em trong ban tổ chức cũng mua xài dè dặt trong vấn đề làm sân khấu và các thứ linh tinh khác, anh Hóa đi dảo giá so sánh rồi cuối cùng ra chợ trời mua giá rẻ.

    Riêng tôi lại càng tiết kiệm sát nút nơi nhà hàng về chuyện thuê người bọc ghế, hoặc trang trí những bình hoa trên bàn, khi nghĩ đến dân nghèo bên Sịa “Cây Mùa Xuân” mỗi năm, và việc khác như Thương phế binh VNCH, nhất là càng quý trọng đồng tiền mồ hôi nước mắt của bà con đóng góp, nếu sau này có ai chê trách thì tôi gắng mở tai ra nghe “lỗi tại tôi mọi đàng” mà.

              Điểm họp mặt ngày tiền hội ngộ tại nhà anh Hồ Đăng Lăng vùng Fremont. Phe đàn ông hằng ngày miệt mài làm sân khấu, đặc biệt Phong (con nhạc sĩ Đinh Miên) yểm trợ vật liệu, Ngô Hoá yểm trợ lều bạt cũng như sự đóng góp công sức của các anh em: Hà Thuận, Hồ Đăng Anh, Hoàng Lương, Lê Hữu Thọ, Hồ Đăng Quỳnh, kể cả 2 ông cố vấn Trần Quỳ và Hồ Đăng Lăng cũng phụ giúp chung tay, đã thiết lập sân khấu ngày tiền họp mặt trong vườn nhà anh Lăng đẹp mắt làm mọi người rất ưng ý. Thức ăn uống, trái cây có người nhà anh Lăng quan tâm, cũng như anh Quỳ, anh Hóa bồi dưỡng đủ món, lúc bánh lọc, bánh ít, khi chả lụa, bánh nậm, bánh cuốn tràn trề kể cả những buổi họp. Nói riêng về cố vấn Trần Quỳ đúng là cây cổ thụ che nắng mưa cho ban tổ chức kỳ này. Tánh tình anh cởi mở, nụ cười thân mật hiền hoà, luôn khuyến khích và sát vai cùng các em bất cứ việc lớn nhỏ, cho chúng tôi cảm giác hăng say quên mệt nhọc.

              Phần văn nghệ đặc biệt là chầu văn, hò Huế nói lên hồn quê hươngđặc điểm dân ca của Huế Sịa ngàn xưa diễn lại. Bà con Bắc Cali quá dễ thương nhiệt tình cho ngày Tiền Hội Ngộ, mỗi người tự nguyện làm một món đem tới điểm tụ nhà anh Hồ Đăng Lăng thiệt hấp dẫn như cá Salmon nướng, gà bóp rau răm, món Ý, món Mỹ, chả giò, xôi, bánh bột lọc trần, gói lá, bánh ít ram, gỏi bò khô, gỏi mít tôm thịt, cơm, mì xào, trái cây, chè Thái Lan, bánh đông sương, chị Hồ Thị Tơ nấu dùm nồi bún chay trong khi trước đó một ngày vừa xong chuyện soi ruột, nàng dâu Sịa đáng nể mặt dám gồng mình khi sức khỏe đang còn yếu ớt . Cũng kể thêm Hồ Dũng (con chú Hồ Lang) tặng bia, nước ngọt, Hồ Đăng Anh & Lê Hữu Thịnh tài trợ phần ban nhạc ngày tiền hội ngộ, Lê Hữu Vinh tài trợ phần rượu Ý đem đến nhà hàng. Không khí càng gần đến ngày càng quýnh quáng hơn, tuy mệt mà vui, vợ anh Hoá, vợ anh Thuận kể “thao thức cả đêm không ngủ được, gần sáng mới thiu thiu thì ông dôn đã thức dậy nhắc nấu món đem đi.”

              Buổi Tiền Hội Ngộ dù trời nóng tới 100 độ, nhưng bà con đến đầy khu vườn trong sự chuẩn bị hết sức công phu. Ban tổ chức mới được bầu Hồ Đăng Anh làm trưởng hội Sịa, Hồ Đăng Quỳnh, Hồ Thuận, Ngô Hoá mỗi người một chức vụ chung nhau làm việc. Riêng tôi thoái thác không chịu nhận chức thủ quỹ tiếp tục theo yêu cầu của các cố vấn, lý do xét đầu óc mình đã nhớ nhớ, quên quên, sợ lúc quên cầm tiền của hội tiêu xài thì nguy nên nhất định từ chối.

              Trong thời gian qua nhờ làm việc mới biết rõ anh Hóa (trưởng ban tổ chức) tánh tình rất hiền hậu đằm thắm, chạy loanh quanh lo đủ thứ việc, anh Thuận (phó ban tổ chức). Thiệt ganh tỵ với anh Thuận, vì trên đời này có bao nhiêu cái tài đều nằm trong người anh hết, thi sĩ chuyên trị thơ Đường, biết lay-out bài vở, viết thư pháp đẹp, design mẫu mã tài, giỏi Computer thật đáng khâm phục. Hồ Đăng Anh là rể trong gia đình nên tôi rành từ lâu, hát hay, hò vè chuyên trị, người có sức khỏe tháo vác, rành chuyện cúng tế. Anh Đăng Quỳnh máu văn nghệ hăng say trời phú giọng hát mạnh, hiền lành dễ chịu. Thật may mắn cho hội Sịa có những người giỏi như vậy, cộng thêm các cố vấn Bùi Phước Ty, chú Thẩm, chúTô, chú Hội, anh Quỳ, anh Lợi, anh Lăng, anh Hoà nhiều kinh nghiệm, luôn góp ý xây dựng và khuyến khích các em bằng sự thương yêu như người một nhà. Chú Hội, chú Tô, anh Lợi rất vui tính và thân thiện, đặt biệt chú Thẩm luôn có máu khôi hài, ăn nói duyên dáng uyển chuyển khéo tài trong phần MC.

                   Tin giờ chót cũng có chuyện vui lẫn chuyện buồn: buồn vì chồng chị Lương Trinh thấy mệt trong người, nên chị không yên tâm, con chị và chị Như Khuê cũng hủy bỏ chuyến đi vì mang tâm trạng “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Vui: là O Duyên Tấn (Thuận), O thuộc vai vế trong bà con nên tôi gọi là O chứ đang còn trẻ, chuyên đi vác ngà voi, lo phần trang trí những tiệc hội chợ, sinh viên, nhà thờ, chùa, hay bất cứ hội đoàn nào nhờ đến. O là người của đất Sịa, vì quá bận rộn không hứa trước sẽ đi dự, nhưng giờ phút chót O đã đủ duyên lên Bắc Cali. Không thể tưởng tượng được vợ chồng O lái 2 xe , gởi thêm xe đò Hoàng các vật liệu trang trí khổng lồ về cảnh thôn quê VN. Vợ chồng O tới nhà hàng xin phép manager, rồi âm thầm trang trí 2 ngày nào là gánh hàng trái cây, ruộng lúa, nón lá, vòm hoa khổng lồ và chữ Sịa to hết chỗ diễn tả. Khi tôi đến sớm thấy O trèo lên cao, chui xuống dưới bò quanh làm việc với đầu bù tóc rối, mặt mày nhợt nhạt, trong khi bà con thi đua nhau xếp hàng chụp hình. Tôi tiếc lúc đó cũng quá lu bu, tại sao không chụp lưu lại hình ảnh người phụ nữ đam mê hết mình vì nghệ thuật và trái tim đầy nhiệt tình hy sinh, dâng hiến niềm vui cho đời. Nhìn công lao O & Chú mọi người muốn ứa nước mắt vì cảm động, O đã đem niềm hạnh phúc lớn lao cho ĐHS và lưu lại kỷ niệm quý giá vô cùng từ hình ảnh.

              Ngày chính thức diễn ra bầu không khí rộn ràng vui nhộn vô cùng. Các cố vấn tuổi đã cao từ xa về áo dài khăn đóng, lòng tôi dâng đầy cảm xúc với bài văn tế của giáo sư Hồ đăng Khác xướng lễ, lệnh chiêng, lệnh trống, chánh bái, bồi bái, giang đăng cùng quý niên trưởng trong ban nghi lễ cổ truyền.

              Ngoài con dân hội Sịa còn có hội Huế, hội Ái Tử Bình Điền, hội Quốc Học Đồng Khánh, và K9B72 SQTB tham dự khá đông, lại được đài Truyền hình Vietoday gửi nhân viên đến làm phóng sự buổi lễ

              Phần văn nghệ đặc biệt là chầu văn, hò Huế nói lên hồn quê hương đặc điểm dân ca của Huế Sịa ngàn xưa diễn lại. Bà con xúm xít hỏi thăm nhau, chụp hình khoe những tà áo dài rực rỡ dưới tranh chiếc xe đò “Huế, An Lỗ, Sịa” ruộng lúa, nón lá rừng hoa đủ màu sắc tươi thắm như muốn trở về ngôi làng thân thương, nơi đồng quê hiền hoà, có lũy tre xanh, có khói lam chiều, có những con người chất phát, những tấm lòng rộng mở chân tình, đầy ắp yêu thương trong tình làng mạc.

              Ngày nay, vì hoàn cảnh người con Sịa sống tha phương nhiều nơi. Đặt biệt nơi xứ người, bà con làng mạc đã tìm kiếm, liên hệ nhau gầy dựng sự đoàn kết, tổ chức những buổi họp mặt nhắc nhở con cháu nhớ nguồn nhớ cội. Lớp tuổi trẻ đã ăn học thành tài góp phần xây dựng cho đất nước Mỹ, được cha mẹ luôn nhắc nhở, giáo dục con cái lối sống đạo đức đùm bọc lẫn nhau, nhất là phải luôn nhớ đến những hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật của bà con bên quê nhà để chia sẻ tình nghĩa

                                  Giữ Trọn Tình Quê

                            Tháng bảy xôn xao mùa họp mặt

                            Bắc Cali hạ kết vành hoa

                            Hân hoan chào đón đồng hương Sịa

                            Từ khắp muôn phương tụ một nhà

                            Tung cánh bầy chim bay biệt xứ

                            Bên ni, bên nớ dõi trăng thề

                            Ngậm ngùi năm tháng niềm mơ ước

                            Xa cách nghìn trùng nhớ rứa thê

                            Đất tổ cố hương đành bỏ lại

                            Đàn con lưu lạc chốn quê người

                            Răng quên được thủa dầm mưa nắng

                            Ruộng lúa câu hò vẫn thắm tươi

                            Hoài niệm không ngưng miền đất Sịa

                            Ai về đầm phá bến Tam Giang

                            Dòng sông kỷ niệm khơi thương nhớ

                            Hãnh diện quê ta đậm nghĩa làng

                            Gặp gỡ vui mừng ôi thỏa mộng

                            Bà con ấm dạ phút sum vầy

                            Hò vè, khơi lại hương mùa cũ

                            Giữ trọn tình quê mãi mãi đầy

                                                                 Minh Thúy Thành Nội

                                                                03/7/2023

    Mời quý Đồng hương xem thêm hính ảnh trong link dưới đây

    Hình ảnh

    https://photos.app.goo.gl/2wcNscSFv5DbJEUw8

    Mời quý Đồng Hương Sịa xem thêm hình ảnh theo những youtube dưới đây do đồng hương Trần Quỳ thực hiện

    Hội Ngộ ĐHS Kỳ 5 tại San Jose, Bắc California ngày 2 tháng 7/2023 (phần đầu)

    Hội Ngộ ĐHS Hải Ngoại Kỳ 5, July.2.2023 tại San Jose (phần 2)

    Hội Ngộ ĐHS Hải Ngoại Kỳ 5. July, 2/2023 tại San Jose, Bắc California (phần 3)

    Hội Ngộ ĐHS Hải Ngoại Kỳ 5. July 2/2023 tại San Jose, Bắc California (phần 4)

    Tiền Hội Ngộ Đồng Hương Sịa Hải Ngoại Kỳ 5, ngày 1/7/2023 tại Fremont (phần dầu)

    Tiền Hội Ngộ Đồng Hương Sịa Hải Ngoại Kỳ 5, ngày 1/7/2023 tại Fremont (phần sau)

    Và Livestream dưới đây o do quý đồng hương Trần Quỳ, Hà Thuận, Linh Nguyễn thực hiện:

    https://www.facebook.com/steven.jackson.359126?mibextid=LQQJ4d
  • Thái Lan

    Hạnh Phúc Với Tuổi Hạc

    3 đoạn dịch của ThaiLan

    JÓN KALMAN STEFÁNSSON –  TLdich

    Những bài dịch, nếu xét về phương diện tầm quan trọng  mà chúng mang đến thì thật là khó phân tích. 

    Chúng làm cho mảng kiến thức của ta được nhân lên rất nhiều, cũng như khiến ta trưởng thành hơn, vì ta sẽ hiểu về thế giới nhiều hơn, cũng như hiểu chính bản thân mình sâu sắc hơn.

     Một quốc gia có rất ít kiến thức được dịch từ ngôn ngữ khác và hạn chế sự tìm kiếm, chỉ đào sâu kiến thức phong phú của ngôn ngữ trong những suy nghĩ của chính họ, sẽ có trí tuệ rất hạn hẹp, và nếu có nhiều đất nước như thế, sẽ trở nên mối nguy nan cho các quốc gia khác, bởi vì có vô số kiến thức cần thiết sẽ trở nên xa lạ với họ, vượt ra khỏi thực lực và tập quán đặc thù của họ. 

    Những tài liệu được dịch sẽ mở rộng tầm nhận thức của con người và của thế giới cũng lúc. Chúng sẽ giúp bạn hiểu thêm về những dân tộc xa xôi. 

    Con người sẽ bớt nghiêng về sự thù hận, hoặc nỗi lo sợ nếu như họ hiểu được người khác. 

    Sự thông cảm có khả năng cứu vãn con người khỏi những khó khăn của chính họ. 

    Nếu như bạn hiểu biết về kẻ thù thì các tướng lãnh rất khó để đốc thúc bạn đang là lính của họ phải chém giết phe bên kia-

    Bạn hãy nghe đây, hận thù và thành kiến chỉ là thành quả của nỗi kinh sợ và sự thiếu hiểu biết – bạn có thể ghi nhớ cho rõ, bạn nhé –

    JÓN KALMAN STEFÁNSSON

    NGỢI CA TUỔI HẠC  – JEAN PIERRE SIMÉON – TLdich

    Tôi yêu làm sao những vị cao niên ngồi sưởi nắng bên khung cửa sổ
    Vui thích nhìn đám mây lơ lửng trên cao
    Lúc vào Đông, ánh nắng phớt nhẹ lẫn vào từng con đường, bước thấp bước cao.
    Tôi yêu làm sao
    những gương mặt muôn vàn nếp nhăn
    Là ký ức của vạn nẻo đường đời..
    hình thành một quãng đời đã qua.
    Tôi trân quý bàn tay run rẩy tuổi hạc
    mơn trớn vầng trán mịn trẻ thơ
    Như cành cây yếu đuối nghiêng ngả

    vuốt nhẹ
    con sông trong suốt.
    Tôi yêu làm sao
    Những cử động chậm chạp yếu mềm vào tuổi xế chiều
    Nắm bắt từng khoảnh khắc cuộc đời
    Như nâng niu chén quân bằng sứ .  .  .
    và phần ta, cũng hay chăm chút từng khoảnh khắc như thế
    Với năm tháng trôi qua-

    JEAN PIERRE SIMÉON 

    Thư của Victor Hugo gửi Lamartine 

    “Đây là  lý do tại sao tôi thực hiện tác phẩm Những Người Khốn Khổ


    Victor Hugo(1802-1885), cây đại thụ của văn học Pháp và văn học toàn cầu, tượng trưng cho tính hiện đại trong văn học thế kỷ 19, có tầm nhìn xa của một nhà văn dấn thân trước thời đại, là tác giả của tác phẩm Những Người Khốn Khổ, và nhiều truyện khác. 

    Đó là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, xã hội và triết học nhuốm màu lý tưởng của chủ nghĩa lãng mạn và  chủ nghĩa xã hội, một tác phẩm trọn vẹn, nhiều lần được chuyển thể thành phim: câu chuyện về Jean Valjean và Cosette đã đi vào thần thoại toàn cầu.

    Trong bức thư gửi cho người bạn Alphonse de Lamartine, văn hào lần lượt nêu rõ ràng khởi thủy cấp tiến của tác  phẩm này, phù hợp với những lý tưởng và ước mơ của bản chất con người.

    Một lá thư- một cú đấm từ cha đẻ của những kiệt tác của nền văn học Pháp!

                                                                   ***

    Gởi anh bạn danh tiếng của tôi

    Nếu cực đoan là lý tưởng thì đúng vậy, tôi là người cực đoan.

     . . .

    Phổ cập hóa quyền sở hữu (ngược lại với việc xóa bỏ nó) bằng cách loại bỏ chủ nghĩa ký sinh, đó chính là đạt được mục tiêu này: mọi người đều là sở hữu chủ , không ai là chủ của ai cả, đối với tôi đây là nền kinh tế học thực sự về chính trị và xã hội.

     Đích đến còn rất xa. Đó có phải là lý do để không bước đến đó?

    Tôi nói gọn lại và tóm tắt.

    Vâng, trong khả năng con người được quyền đòi hỏi bao nhiêu thì tôi muốn tiêu diệt định mệnh của con người; Tôi lên án chế độ nô lệ, tôi xua đuổi nghèo đói, tôi chỉ dẫn về sự ngu dốt, tôi điều trị bệnh tật, tôi soi sáng màn đêm, tôi căm ghét hận thù.

     Đây chính là con người tôi và đây là lý do tại sao tôi thực hiện Những Người Khốn Khổ.


    Trong tâm trí tôi,  Những Người Khốn Khổ   chỉ là một cuốn sách lấy tình huynh đệ làm nền tảng và sự tiến bộ là đỉnh cao, không có điều gì khác.

    Bây giờ xin hãy phán xét tôi. […]

    ========================

       Lettre de Victor Hugo à Lamartine “ Voilà pourquoi j’ai fait Les Misérables

    Victor Hugo (1802 – 1885 ), géant de la littérature française et universelle, symbole de la modernité dans la littérature du XIXème siècle, esprit visionnaire et écrivain engagé avant l’heure, est l’auteur, entre autres, des Misérables. Roman historique, social et philosophique teinté des idéaux du romantisme et des exigences du socialisme, œuvre totale, maintes fois adaptée au cinéma, l’histoire de Jean Valjean et de Cosette est entrée dans la mythologie universelle. 

    Dans cette missive adressée à son ami Alphonse de Lamartine, l’homme de lettres énonce haut et fort à son tour l’origine radicale de cette œuvre, à hauteur des idéaux et des rêves de la nature humaine. 

    Une lettre-coup de poing du père de la littérature française!

    +++++++

     

    Mon illustre ami,

    Si le radical, c’est l’idéal, oui, je suis radical.

    [. . .]

     Universaliser la propriété (ce qui est le contraire de l’abolir) en supprimant le parasitisme, c’est-à-dire arriver à ce but : tout homme propriétaire et aucun homme maître, voilà pour moi la véritable économie sociale et politique. 

    Le but est éloigné. Est-ce une raison pour n’y pas marcher ?

     J’abrège et je me résume.

     Oui, autant qu’il est permis à l’homme de vouloir, je veux détruire la fatalité humaine ; je condamne l’esclavage, je chasse la misère, j’enseigne l’ignorance, je traite la maladie, j’éclaire la nuit, je hais la haine.


    Voilà ce que je suis, et voilà pourquoi j’ai fait Les Misérables.


    Dans ma pensée, Les Misérables ne sont autre chose qu’un livre ayant la fraternité pour base et le progrès pour cime.
    Maintenant jugez-moi. […]

  • VFC Trịnh Bình An

    Tuốt Kiếm Phương Xa

    Có gì trong “Tuốt Kiếm Phương Xa” của George J. Veith?

    Trịnh Bình An

    ***

    Tháng 3 năm 2021, nhà biên khảo George J. Veith ra mắt tác phẩm:

    Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams.”

    Đây là cuốn sách biên khảo thứ tư của ông về Chiến Tranh Việt Nam.

    Tháng 11 năm 2023, cuốn sách được dịch giả Phan Lê Dũng chuyển ngữ, với tựa:

    Tuốt Kiếm Phương Xa – Những Giấc Mơ Tan Vỡ Của Miền Nam Việt Nam.”

    ***

    Theo George J. Veith, cái nhìn về “Vietnam War” của thế giới cực kỳ đơn giản:

    Hà Nội được ban cho chủ nghĩa dân tộc, còn Sài Gòn được định là phải thua.

    Sự sụp đổ thảm hại của Miền Nam tháng Tư 1975 dường như chứng minh cho cách nhìn trên là đúng. Vì lẽ đó, chẳng có gì cần bàn cãi thêm nữa.

    Drawn Swords” là chữ rút ra từ Kinh Thánh. Tác giả ngụ ý: Thất bại của Miền Nam chẳng phải lỗi tự người mà là do Trời giáng xuống oan khiên.

    Shattered Dreams” bởi vì:

    Miền Nam Việt Nam có riêng câu chuyện của họ nhưng lại bị bỏ qua. Đó là câu chuyện củaNhững Ước Mơ” – như lời của một người Miền Nam: “Chúng tôi có rất nhiều ước mơ: ước mơ tự do, ước mơ độc lập, và ước mơ ấm no cho toàn dân. Còn Cộng Sản thì chỉ có độc nhất một tham vọng, đó là dành lấy chiến thắng bằng mọi giá.”

    Lần đầu tiên, một sử gia ngoại quốc khám phá ra “Sự Thật của Miền Nam“:

    Sài Gòn đã thực hiện đồng thời hai mục tiêu:

    Chiến thắng cộng sản và Xây dựng dân chủ.

    Để hoàn thành hai nhiệm vụ to lớn ấy, người dân Miền Nam phải vượt qua di sản suy tàn của chế độ thực dân Pháp. Họ phải đương đầu rất nhiều thử thách: Thiếu đoàn kết dân tộc, xung đột quân dân, thể chế chính trị chưa phát triển, và nhiều vấn đề khó khăn khác.

    Tệ hơn, họ phải giải quyết khó khăn trong khi sát nách là kẻ thù hung hiểm: Cộng Sản.

    Tuốt Kiếm Phương Xa” cho thấy Việt Nam Cộng Hòa không hề là sản phẩm của Mỹ.

    Nền kinh tế Miền Nam VN cho tới nay vẫn bị cho là kém cỏi, nhưng sự thực nền kinh tế ấy đã có những ảnh hưởng to lớn nhờ tạo ra được sự bình đẳng trong dân chúng, như chương trình “Người Cày Có Ruộng.”

    Tuốt Kiếm Phương Xa” còn xem xét kỹ lưỡng vai trò chủ chốt của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong nỗ lực đem lại hòa bình và chiến đấu chống giặc.

    ***

    Từng là một người lính, khi khép lại cuốn sách trên 10 năm biên soạn, “Jay” không khỏi cảm thán khi nghĩ tới số phận nghiệt ngã của những người lính không cùng màu da, không cùng tiếng nói – những người lính “in a Distant Land.”

    Những người Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa không thể giải thích rõ ràng về bản thân họ với những người ngoại quốc. Họ không thể giãi bày với quốc tế về những điều họ đã phải đương đầu.

    Kết quả, mặc dù chiến đấu kiên cường bất khuất, Việt Nam Cộng Hòa đã thua trận trước khi quốc gia non trẻ này có thể hoàn thành việc phát triển.

    Trong rất nhiều năm, Việt Nam Cộng Hòa đã gánh chịu nhiều định kiến nặng nề. Và, những người Quốc Gia (Nationalists) cũng lặng lẽ ôm mối thống hận. Bởi, họ cho rằng mình có tội – Tội làm mất nước.”

    Giờ đây lịch sử phải trả lại công bằng cho Miền Nam Việt Nam.” 

    ***

    Trịnh Bình An

    (11/2023)

    Ghi Chú:

    George J. Veith – Cựu Đại Úy binh chủng Thiết Giáp Hoa Kỳ từng phục vụ tại Đức quốc. Khi cuộc chiến Việt Nam chấm dứt 4/1975, “Jay” chỉ mới tốt nghiệp trung học nhưng luôn quan tâm tới vấn đề POW/MIA. Hai tác phẩm đầu tiên: “Code-Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War ” (1998), và “Leave No Man Behind: Bill Bell and the Search for American POW/MIAs from the Vietnam War” (2004).

    Khi gặp gỡ Thiếu Tướng Lê Minh Đảo để tìm hiểu thêm về mặt trận Xuân Lộc 1975, tướng Đảo yêu cầu Jay thực hiện một cuộc biên khảo trung thực về Việt Nam Cộng Hòa. Kết quả, cho ra đời tác phẩm “Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-75” (2012). Sách tiếng Việt có tựa “Tháng Tư Đen” (2013) do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ phát hành.

    Năm 2021, George J. Veith tốt nghiệp tiến sĩ Đại Học Úc Châu “The Univeristy of Aderlain“với luận án về Việt Nam Cộng Hòa. Tác phẩm thứ năm của Jay có tên “Peace, POWs, and Power.”  (2023). Mời vào thăm trang nhà của George J. Veith: www.thangtuden.info

    Tuốt Kiếm Phương Xa” –  800 trang. Ấn phí $40 usd. Tủ Sách Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2023. Để mua sách qua bưu điện, xin gửi chi phiếu về: VLAC /TS Tiếng Quê Hương –  P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA.

    Liên lạc email: uyenthaodc@gmail.com . Hay, đặt mua online trên trang Barnes & Noble. https://www.barnesandnoble.com/w/tuot-kiem-phuong-xa-dung-phan/1144049817

  • Minh Thúy,  Tin Buồn: Phân Ưu

    Vĩnh biệt Thi sĩ Trịnh Cơ

    Vĩnh Biệt Thi Nhân Trịnh Cơ
    Buốt nhói tim lòng khóc Trịnh Cơ
    Hung tin gởi đến có ai ngờ
    Duyên sinh hội tụ đà in phút
    Nghiệp tử chia ly đã điểm giờ
    Chấm dứt thi đàn thôi ý nhạc
    Không còn xướng họa nghẹn lời thơ
    Vô thường cuộc sống người yên nghỉ
    Lạnh lẽo thu buồn tiếc ngẩn ngơ
                 Minh Thúy Thành Nội
                    Tháng 11/2/2023

  • Phong Châu

    Dốc Sương Mù

    …Mày biết không? Nhà tao ở phía sau đường Bạch Đằng mà dân Đà Lạt hay gọi là cây số bốn, chắc có lẽ từ đó ra chợ Đà Lạt dài bốn cây số. Từ đường Bạch Đằng vô nhà tao phải đi gần cả cây số nữa mới đến, nằm gần phi trường Cam Ly, lúc đi học tao phải đạp xe trên con đường đất nhỏ, bề ngang chừng hơn thước rồi mới đến đường Bạch Đằng nơi giáp với đầu dốc La Sơn Phu Tử. Con đường này dài chưa đến cây số và cuối đường, nếu quẹo phải là đường Phan Đình Phùng, quẹo trái đi lên Mả Thánh nhưng nếu cứ đạp thẳng trên đường nhựa sẽ đến trường Trần Hưng Đạo, đường này mang tên  Nguyễn Hoàng, phía bên phải là ấp Hà Đông chuyên trồng dâu tây và bên trái là một quả núi toàn mồ với mả…không biết chôn từ đời thuở nào mà nhiều vô kể. Nhiều lần tao đạp xe đi ngang đây vào chặp nhá nhem tối, đôi lúc cũng thấy rợn cả người. Nhưng chuyện tao kể cho mày nghe không phải là chuyện ma ở Mả Thánh mà là chuyện có vẻ như là ma…mày có tin không?

    Mày biết không? Đường La Sơn Phu Tử dài chưa đầy cây số mà một phần ba đường này là một đoạn dốc cao giáp với đường Bạch Đằng. Lúc đi học thì tao xổ dốc, còn lúc về thì năm khi mười họa mới đạp nổi lên dốc, thường phải xuống xe dắt bộ lên cho hết đoạn dốc ngắn này. Vừa xuống hết dốc thì gặp đường Hai Bà Trưng. Mày biết không? Tao học lớp sáng nên hôm nào tao cũng dậy sớm mà trời Đà Lạt dạo đó hầu như lạnh quanh năm, phải mặc có khi hai ba chiếc áo ấm mới khỏi lạnh và đi học buổi sáng thì lại có sương mù nên cả người tao, nếu không mưa ướt thì sương mù cũng làm áo quần lẫn tóc tai tao đẫm sương. Tao học ở trường Trần Hưng Đạo từ những năm đệ thất, lúc học sáng lúc học chiều và tao chưa bao giờ vắng mặt một buổi học hay đi học trễ, thế mà…

    Mày biết không? Có một buổi sáng, trời lạnh và sương mù dày đặc, tao đạp hết đoạn đường đất đỏ từ nhà đến đường Bạch Đằng thì tự nhiên như có người bảo bên tai: “quẹo qua đường Phan Đình Phùng đến ngả ba chùa” và tao nghe như thế nhiều lần. Khi tao đạp đến cuối đường La Sơn Phu Tử lại nghe “quẹo qua Phan Đình Phùng đến ngả ba chùa”. Chung quanh tao lúc đó chỉ thấy sương mù dày đặc và trời thì tối om khiến tao không còn thấy đường đi trước mặt. Trong đầu tao cứ nghĩ “thế này thì làm sao đến trường không bị trễ học…”. Đầu thì muốn đạp xe đến trường mà chân cứ đạp xe đi hướng khác. Bình thường tao cũng hay đạp xe trên đoạn đườngnày và nhớ có một fontaine nước nằm bên tay phải, nơi có con đường mòn băng qua đường Hai Bà Trưng. Tao cố nhìn nhưng chẳng thấy cái fontaine nước đâu cả. Trong đầu lại nghĩ “tại sao mình không đạp xe đến trường mà lại đi đường này…”. Nhiều lần muốn quay trở lại nhưng chân vẫn cứ đạp xe về hướng ngả ba chùa. Đạp thêm một đoạn nữa thì phía bên trái là một dãy nhà mười căn nơi có gia đình người bác của tao ở số 256 nhưng tao không còn thấy dãy nhà này nữa, nó biến đi đâu mất và trong tai tao vẫn còn nghe: “đến ngả ba chùa…đến ngả ba chùa…”. Mọi khi vẫn có sương mù nhưng tao vẫn còn nhìn thấy đường để đi, vẫn còn lờ mờ thấy nhà cửa xe cộ hai bên thế nhưng hôm đó tao không còn thấy gì cả mà sương mù hình như mỗi lúc một nhiều thêm . Có một điều lạ là tao cứ đạp xe như thế gần giống như đạp trong bóng tối mà không đụng vào ai và cũng chẳng có người nào chạm vào mình. Quả là kỳ lạ! Tao không biết thời gian đạp xe trên đoạn đường này là bao lâu cho đến khi hình như có một vật gì rất lớn tông vào chiếc xe đạp của tao khiến tao ngả nhào xuống mặt đường, khi hoàn hồn thì thấy cả người lẫn xe nằm chỏng gọng trước cây xăng ở ngả ba chùa. Tao hoảng kinh vội đứng dậy nhìn quanh như người mất hồn. Có mấy người bu quanh và hỏi chuyện nhưng tao thật sự chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Có người cho tao hay: “cậu đang đạp xe phía bên phải bỗng xe đâm sang bên trái rồi ngả xuống đường, may mà không bị thương tích gì…”. Tao đứng dáo dát đâu chừng vài phút và nhận thấy quanh tao không có tí sương mù nào cả, bầu trời trong vắt sau những tia nắng ban mai rọi xuống khắp nơi…Khi tỉnh hẳn tao mới biết là mình đang trên đường đi học. Thế là tao vội vã nhảy lên xe rồi vội vã đạp đến trường. Biết mình trễ nên tao đi thẳng vào văn phòng xin giấy cho vào lớp. 

    Mày biết không? Chuyện xảy ra như thế nhưng tao cứ nghĩ: “chắc mình bị sương mù che nên đi lạc đấy thôi…”. Chuyện này tao không kể cho ông bô bà bô nghe, sợ bị rầy là chuyện hoang đường bịa đặt. 

    Mày biết không? Ngày hôm sau và ngày tiếp sau đó, khi vừa đến đầu dốc La Sơn Phu Tử thì chuyện lại diễn ra như ngày hôm trước. Hậu quả là tao đến trường trễ và bị đuổi về, không cho vào lớp. Tao không thể hiểu được chuyện gì khiến tao lâm vào tình cảnh như thế. Tao có đặt câu hỏi “hay là ma bắt!”. Nếu ma thì phải xảy ra ở Mả Thánh chứ sao lại trên đường đi…mà tao thì chưa bao giờ bước chân lên đến Mả Thánh hay là làm điều gì trái khuấy đối với những người đã nằm sâu dưới những ngôi mộ kia. Sự việc xảy ra làm cho tao sợ vì nếu cứ tiếp tục xảy ra nữa, thế nào tao cũng bị đuổi học. Đến ngày thứ ba khi tao vừa ló đầu vào nhà thì liền bị bà bô phán liền cho một câu: “Mày sao vậy? Giống người người mất hồn, sao không đi học mà trở về? Bị ma bắt hả?”. Nghe hai tiếng “ma bắt” tao càng hoảng kinh hơn và cả ngày hôm đó tao không ăn uống gì và ngủ li bì. Ông bà bô tưởng tao bị bịnh nên cứ để cho tao ngủ suốt ngày hôm đó và qua đêm luôn.

    Mày biết không? Tối hôm đó tao ngủ thấy chiêm bao chuyện xảy ra trước đó. Thế này. Lớp tao có thằng bạn tên Nguyễn Mại học khá giỏi và hiền lành, không bạn bè, không đàn đúm, đến trường vào lớp, tan học lủi thủi về nhà và chỉ có một mình tao chơi với hắn nên hắn cũng mến và nhiều lần rủ tao về nhà hắn chơi. Nhà hắn ở tận dưới ấp Cô Giang và đi học bằng xe đạp mỗi ngày. Hắn có người anh học trên hắn hai lớp. Đến nhà chơi nhiều lần và biết anh hắn có một tủ sách chừng năm sáu chục cuốn nên nhiều lần tao tò mò đến đọc các tựa đề sách. Có lần tao thấy ở gáy một cuốn sách có tựa ghi “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh. Tao từng nghe một người chị nói về sách “Liêu Trai Chí Dị” kể toàn những chuyện ma quái kì ảo lạ thường rất hấp dẫn của tác giả người Trung Hoa viết vào thời nhà Thanh ở cuối thế kỷ thứ 17. Một hôm tao bạo miệng bảo hắn lấy cho tao mượn cuốn “Liêu Trai Chí Dị” để đem về đọc. Lúc đó không có anh hắn ở nhà nên hắn lén lấy cuốn sách đưa cho tao. Về nhà tao đọc một hơi hết cuốn truyện chỉ trong một đêm, đúng là toàn những chuyện thần tiên, ma quái, hồ ly, lang sói cọp beo khỉ rắn…chẳng hạn như chuyện “Thiến Nữ U Hồn” kể chuyện chàng trai họ Ninh trên đường đi vào tá túc trong một ngôi chùa, tình cờ quen Yến Xích Hà. Cô này đã chết 18 năm trước bị yêu tinh khống chế bắt phải quyến rũ người để giết. Chuyện “Họa Bì” kể về một chàng trai đi đường gặp một cô gái nói là bị lâm nạn, chàng trai cứu nàng rồi mang về nhà để sống chung. Một đạo sĩ phát hiện nơi chàng có tà khí nhưng chàng không tin. Về nhà lén nhìn cô gái thì phát hiện ra đó là con quỷ khoác tấm da người. Chuyện “Họa Bích” kể chuyện hai chàng trai họ Mạnh và họ Chu vào chơi một ngôi chùa. Chu thấy trong phòng có một bức tranh vẽ trên tường và thấy một cô gái rồi cùng nhau yêu đương. Mạnh đi tìm không thấy Chu nên hỏi vị sư già. Vị sư liền gọi Chu từ bức vẽ đi ra. Mạnh và Chu hãi sợ bèn bái biệt nhà sư ra về…Đại khái có cả hàng trăm truyện nội dung tương tự như thế.

    Mày biết không? Một hôm có thằng bạn tao đến nhà chơi thấy cuốn “Liêu Trai Chí Dị” để trên bàn học mà tao chưa kịp trả lại cho Mại. Tên này năn nỉ mượn, nói đọc xong ngày mai mang trả liền. Tin lời nên tao đưa cho hắn mượn. Hôm sau không thấy hắn mang trả. Tao có nhắc nhiều lần mà không biết vì cớ gì mà hắn cứ hẹn hết ngày này sang ngày khác. Sau đó tao quên bẳng luôn việc đòi sách và cũng quên luôn việc tao đã mượn cuốn đó của thằng Mại.

    Mày biết không? Một hôm vừa vào đến sân trường thì mấy thằng cùng lớp cho hay là sáng hôm trước thằng Mại bị xe nhà binh đụng chết tại ngả ba chùa gần cây xăng. Tao nhớ ngay là chưa trả cuốn “Liêu Trai Chí Dị” cho hắn. Tối hôm đó tao ngủ thấy thằng Mại hiện về đòi sách. Trong chiêm bao hắn bảo: “vì cho mày mượn cuốn “Liêu Trai Chí Dị” không trả nên khi anh tao thấy trong kệ sách mất cuốn đó thì hạch hỏi tao. Tao không dám nói cho mày mượn và bị anh tao tát cho hai bạt tai…” Bẳng đi cả tuần lại xảy ra việc tao đi học nhưng không đi đến trường mà lại đạp xe đến ngả ba chùa liên tiếp trong ba buổi sáng. Tao nghĩ đến việc phải tìm cách trả lại cuốn “Liêu Trại Chí Dị” cho hắn.

    Mày biết không? Không biết trời xui đất khiến thế nào mà thằng bạn tao mang cuốn “Liêu Trai Chí Dị” trả lại và tao tìm đến nhà để trả cho anh hắn. Đến nơi thì hàng xóm cho biết gia đình hắn đã dời đi nơi khác. Đạp xe từ ấp Cô Giang để về nhà thì trời đã chập choạng tối và suơng mù không biết nơi đâu kéo về che che cả đường đi. Tao đạp xe ngang qua ngả ba chùa, đến cây xăng nơi tao bị vật té ba lần thì dừng lại, vào hỏi người bán xăng là trước đây có người học trò bị đụng xe ở đây phải không? Người bán xăng nhìn tao và đưa tay chỉ phía trái cây xăng nơi có mấy nhánh hoa glaieul đã héo tàn nằm bên vệ cỏ. Lúc đó bên tai tao nghe tiếng của thằng Mại: “Hãy đưa sách cho tao…hãy đưa sách cho tao…”. Thế là tao cầm cuốn “Liêu Trai Chí Dị” đến đặt ngay bên mấy nhánh hoa tàn xong vội vã phóc lên xe đạp một mạch về nhà. Cả người tao ướt đẫm mồ hôi mặc dầu trời lúc ấy rất lạnh.

    Người kể câu chuyện trên tên Lê Văn Hải học cùng lớp nhưng khác ban với kẻ viết lại câu chuyện này. Hải đi Võ Bị khóa 19. Noel năm 1971 tình cờ gặp Hải trong quán Brodard trên đường Tư Do ở Sài Gòn khi Hải về phép. Sau vài câu thăm hỏi, chúng tôi nhắc vài mẫu chuyện xưa khi còn đi học và Hải đã kể cho tôi nghe câu chuyện trên và lúc nào Hải cũng bắt đầu câu nói bẳng “Mày biết không? Mày biết không?” khiến tôi nhớ mãi. Hải tử trận vào ngày 26 tháng giêng năm 1973, một ngày trước hiệp định Paris được ký kết! Phong Châu                        

  • Giao Chỉ

    AI KHÓC CHO TRẺ EM DO THÁI VÀ PALESTINE – Giao Chỉ San Jose. (Ông già viết chuyện chiến tranh) – 2)- Rất Cần Bộ Thắng Cho Một Dân Tộc Anh Hùng.

    Quan sát cuộc chiến này không thể bay trên cao như hỏa tiễn. Hãy ngồi xuống hầm mà khóc với trẻ em…

    Xin đọc và chia xẻ. 

    Giao Chỉ San Jose

    Ông già trong bài tạp ghi với tin tức chiến tranh bên Trung Đông là chính tôi. Giao Chỉ San Jose. Trong tuổi hoàng hôn những người cao niên Việt Nam sống còn sau chiến tranh thực sự ngày nay lại nhìn thấy biết bao đau thương kinh hoàng hàng ngày trên màn ảnh.

    Với những kiến thức rất thông thường, chúng tôi xin ghi nhận những tin tức và cũng có những suy nghĩ thực tế. Nhân loại đang bị lãnh đạo bởi phần lớn các thành phần vô đạo. Putin lãnh đạo nước Nga là một tay cộng sản máu lạnh đóng vai độc tài hết sức tàn nhẫn. Nhân danh người anh hùng muốn đem đất nước trở lại vị trí siêu cường, tay cộng sản sau cùng còn lại quyết tâm tái lập liên bang Sô Viết đem quân chinh phục các nước chư hầu thời trước. Cuộc tấn công Ukraine đau thương làm chết bao nhiêu đàn bà trẻ em vô tội. Lại nói đến Trung Hoa kể từ khi trở thành Trung Cộng dân số dẫn đầu thế giới vẫn còn nằm trong tay một tên máu lạnh da vàng Tập Cận Bình mang giấc mơ chinh phục thế giới. Giữa Nga và Tàu là tay độc tài số 1 của Triều Tiên công khai đóng vai lãnh đạo điên khùng hết sức lạ lùng trên sân khấu chính trị. Cả 3 tay anh chị này đều sở hữu bom nguyên tử sẵn sàng hăm dọa toàn cầu. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, một tổ chức vĩ đại của thế giới sau đệ nhị thế chiến với Hội đồng Bảo An danh tiếng toàn cầu. Lần đầu tiên họp mặt năm nay không có sự hiện diện của Nga, Tàu, Anh và Pháp. Chỉ còn một mình tổng thống già nua của Hoa Kỳ hiện diện. Đại chiến thế giới chưa thực sự xảy ra nhưng địa cầu ngày nay không phải là trái đất bình yên mà chính là một lò lửa.

    Đột nhiên tuần qua trận động đất do con người tạo ra đã nổ lớn ở giải đất tạm yên miền đất Thánh đã từng phát sinh ra 3 tôn giáo đem đến niềm hy vọng cho nhân loại.

    Miền đất mang nặng hận thù tôn giáo và sắc tộc giữa dân Do Thái và Palestine đang tạm thời hưu chiến. Đây là miền đất vô cùng phức tạp. Có chỗ được phân chia ngăn cách bởi bức tường rào cản kiến cố. Có chỗ thì dân 2 bên sống xen kẽ như sôi đậu. Hàng ngày vẫn có đường cho dân Palestine hàng ngàn người qua biên giới đi làm công cho dân Do Thái. Từ bao năm qua dân Palestine cam phận công dân hạng nhì sống bên sắc dân xuất sắc anh hùng nhất thế giới gọi là Israel. Trên thực tế, ngàn năm trước vốn là anh em một nhà. Trên giải đất trầm luân này vốn chỉ có một tên Israel. La Mã và Hy Lạp đến chinh phục. Đa số Israel theo Do Thái Giáo bỏ nước ra đi. Phần còn ở lại thành Palestine theo Hồi Giáo. 700 năm sau Israel đem Do Thái Giáo trở về đất Thánh gặp người anh em xưa theo Hồi Giáo nên trở thành cựu thù truyền kiếp.

    Cho đến ngày 7 tháng 10-2023 vừa qua, cuộc chiến giữa hai dân tộc anh em một nhà ngàn năm trước bùng nổ. Bây giờ chưa biết ngày mai ra sao.

    Hãy xem lại trang sử cũ. Với một vài niên kỷ đơn giản ghi lại như sau. Ba ngàn năm trước đã có người Do Thái mở nước tại Jerusalem và theo Do Thái Giáo với cuốn Kinh Cựu Ước. Rồi tiếp theo dân La Mã đến chinh phục chiếm đóng cho đến khoảng một ngàn năm trước Jesus ra đời nhân danh đấng cứu thế. Ngài bị quân La Mã đóng đinh trên Thập tự Giá. Toàn dân đất thánh cũng tin chúa Jesus nhưng lòng tin chia đôi ngả. Thiên Chúa Giáo tin Chúa Phục sinh và ngả theo Kinh Tân Ước trở thành hệ thống vĩ đại với tòa Thánh La Mã ngày nay. Do Thái giáo vẫn giữ kinh Cựu Ước. Cũng tại miền đất thánh Jerusalem vào khoảng 600 năm sau Công nguyên một nhà tiên tri Muhammad xuất hiện tuyên xưng Hồi Giáo với Kinh Koran xây dựng nền tảng cho một tôn giáo rất đặc biệt với số giáo dân khắp miền Trung Đông hiện nay bao gồm cả người Palestine tại Jerusalem.

    Riêng những người theo Do Thái Giáo mất nước nhưng giữ đạo đi khắp thế giới. Những người anh em còn ở lại theo đạo Hồi. Sau đệ nhị thế chiến 1945 với những đau thương vì dân Do Thái bị Đức quốc xã giết cả triệu người, Liên Hiệp Quốc quyết định cắt đất ngày xưa đưa Do Thái về lập quốc tại quê hương cũ. Những người anh em Palestine khác tôn giáo trở thành thù nghịch. Thế giới tây phương và Hoa Kỳ ủng hộ Do Thái lập quốc. Thế giới Hồi giáo bênh vực để người Palestine được sinh tồn trên giải đất thiêng. Hai trận chiến đã xảy ra giữa Do Thái và các quốc gia Hồi quốc và cả 2 lần Do Thái chiến thắng vẻ vang. Cũng hơn 2 lần Hoa Kỳ phải đứng ra hòa giải mối hận thù truyền kiếp. Năm 1948 Liên quân Ả Rập và các nước Hồi Giáo thề tiêu diệt Do Thái nhưng không thành công. Tiểu quốc Israel chiến thắng. Năm 1967 thêm một lần trong cuộc chiến 6 ngày, Do Thái chiếm toàn thể Jerusalem. Chiến công vang lừng thế giới nhưng thực sự vẫn không tiêu diệt được đám cựu thù anh em. Các chính quyền Mỹ luôn luôn ủng hộ Do Thái nhưng cũng vỗ về Palestine và thế giới Hồi Giáo.

    Năm nay chính quyền Mỹ đang làm hòa với Iran qua vấn nạn bom Nguyên Tử. Mặt khác chuẩn bị thỏa hiệp với ARập Seout mở đường cho kỷ nguyên hòa giải lâu dài. Nhưng hận thù truyền kiếp tại lò lửa Jerusalem chưa tắt. Trong nhiều thập niên hòa bình giả tạo dân tộc anh hùng Do Thái vẫn tiếp tục đày đọa những người anh em tiền kiếp sống đời đói khổ trong vai công dân hạng nhì. Chính quyền hiện nay của Do Thái với vị thủ tướng hết sức cứng rắn đối nghịch với dân Palestine. Với biết bao hận thù chịu đựng, Palestine yểm trợ cho tổ chức Hamas cầm quyền và chuẩn bị 2 năm để phục hận. Các tổ chức tình báo danh tiếng của Do Thái hoàn toàn không biết hoặc tin địa phương có thể theo dõi nhưng vẫn coi thường. Cuộc tấn công của Hamas trở thành trận Trân Châu Cảng của Nhật đánh Mỹ bất ngờ. Cũng tương tự như trận 9-11 của cảm tử Trung Đông đánh tòa cao ốc Nữu Ước. Thủ tướng Do Thái mất mặt đã hùng hổ tuyên bố sẽ dẹp tan Hamas làm cho tổng thống Hoa Kỳ cũng phải hoảng hốt ngăn cản. Dù tàn sát hết lãnh đạo cuộc tấn công nhưng mối thù truyền kiếp mang tên Hamas sẽ mãi mãi tồn tại. Giai đoạn đầu Do Thái đành phải trả đũa bằng những trận mưa hỏa tiễn. Ba trăm ngàn chiến binh tập hợp cấp tốc trong 48 giờ lại thêm 60 ngàn quân trừ bị thực là tổ chức quân sự vô cùng xuất sắc. Toàn bộ quân dân của Palestine đang nằm trong vòng vây của Do Thái. Bom đạn của chiến tranh không thể biết đâu là Hamas đâu là Palestine.Toàn thể đất thù nghịch đã bị cắt đứt mọi phương tiện sống bao gồm điện nước, thực phẩm và hệ thống y tế. Tuyên bố dân Hồi Giáo phải di chuyển xuống miền Nam để tránh trận tấn công hủy diệt. Liên hiệp quốc lên án cuộc bao vây của Do Thái và hành động cắt hết phương tiện sinh tồn của dân Palestine. Các cuộc biểu tình nổi dạy khắp mọi nơi để đấu tranh cho cả hai phía.

    Cho đến giữa tháng 10 hai phe cùng pháo kích qua lại nhưng bộ binh Israel vẫn còn nằm chờ lệnh ở biên giới. Ký giả danh tiếng Thomas Friedman viết bài xã luận hàng tuần cho NY Time đã cho rằng Do Thái cần thông minh để tránh sa vào cạm bẫy của Hamas. Cần nhắc lại lịch sử sau trận chiến thắng 6 ngày năm 1967 Do Thái đã chiếm toàn bán đảo Sinai những điều quan trọng hơn hết là đạt đuoc hòa ước đình chiến ký với Ai Cập. Lần đầu tiên thế giới Hồi Giáo chấp nhận chính thực sự hiện diện của quốc gia Israel tại Trung Đông. Hai bên ký kết tại Hoa Kỳ dưới sự thu xếp và chứng kiến của tổng thống Carter.  Mới đây tổng thống Ai Cập loan báo sẽ tổ chức buổi họp vào cuối tháng 10-2023 để làm mới lại tình thần hữu giữa 2 bên. Hamas mang nặng chủ trương chống Do Thái đã chuẩn bị 2 năm cho cuộc tổng nổi dậy bèn ra tay trước khi Ai Cập mở đường cho việc tái lập hòa bình. Nếu ngày nay Do Thái động binh ra tay tàn nhẫn với Palestine và Hamas sẽ phá tan tinh thần Hòa Bình của Ai cập và thế giới Hồi Giáo. Cả hai phía đều có những phần tử muốn sống chung hoa bình hay quyết tử hiếu chiến. Nhưng cuộc chiến thời nay không phải các tướng lãnh và chiến sĩ đem nhau ra cánh đồng đánh võ. Đám lãnh đạo điên cuồng hai bên chỉ ngồi ở nhà ra lệnh cho vũ khí tàn sát thường dân chết vô tội vạ. Nhưng với cú ra tay tàn nhẫn của Hamas vừa qua trong khi Do Thái có 300 ngàn chiến sĩ sẵn sàng trả thù. Làm sao phe ta có thể nhẹ nhàng lùi bước. Rồi đây ai sẽ khóc cho những đứa trẻ của Israel và Palestine tử nạn. Chiến tranh này không chết người anh khói lửa mà chết toàn em gái nhỏ hậu phương.

    Dân tộc Do Thái tài giỏi, anh hùng vĩ đại thành công xây dựng được đất nước mà lại không chinh phục được lòng người. Nuôi mãi thù hận truyền kiếp mà không diệt được Taliban, tiếp đến Hamas và Hezbollah còn đang nối gót lấy chính thân mình làm vũ khí nổi dậy.Thực sự thế giới Hồi Giáo cũng có 2 phe đã điên cuồng giết nhau. Palestine cũng có phe chấp nhận sống chung hòa bình với Do Thái. Người Do Thái Israel cũng mỏi mệt vì chiến tranh. Làm sao có được những nhà lãnh đạo đủ can trường ngồi lại bàn chuyện hòa bình. Nước Mỹ đã bao phen tìm cách giải hòa thế giới. Những ngày nay chính Mỹ không đoàn kết nội bộ, nhưng điều may mắn là không có mâu thuẫn tôn giáo. Với những lòng tin quyết liệt khác biệt, Trung Đông mãi mãi vẫn là lò lửa của thế giới. Biết ngày mai ra sao??

    Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

    _______________________________________-

    Rất cần bộ thắng cho một dân tộc anh hùng

    Giao Chỉ. San Jose.

    Tổng kết giai đoạn mở đầu:

    Trong 20 ngày qua trận chiến Trung Đông nổi dậy ngày 7 tháng 10-2023 có thể sẽ là ngày lịch sử thế chiến thứ 3 nếu các nhà lãnh đạo liên hệ không tìm cách dập tắt ngọn lửa mở đầu. Trận này do Hamas từ trong khối 2 triệu dân Palestine âm mưu 2 năm đánh qua đất Do Thái. Giữa thế kỷ 21 thiên hạ có đủ loại vũ khí tối tân, quân Palestine Hamas đã tham chiến như đùa, chạy xe ôm chở tay súng bắn loạn dân chúng Do Thái. Quân đội Israel lập tức tập trung ngoài biên giới và oanh tạc dữ dội trả đũa. Tổng kết 20 ngày qua bên Do Thái chết 1.400 người và bị bắt làm con tin 220. Phe Palestine bị bom tàn sát chết 5,800. Chiến tranh kỳ lạ cả hai bên chết toàn dân chúng kể cả đàn bà và trẻ em. Số lính của 2 bên hy sinh không đáng kể. Số người chết bên Do Thái là chuyện đau thương nhưng dân chết bên Palestine lại là số thống kê để giành chính nghĩa. Nếu Do Thái tiếp tục oanh tạc làm cho đám dân láng giềng thù nghịch chết thêm hàng ngàn thì phe Hồi Giáo trở thành chiến thắng.

    Ngay khi cuộc chiến bùng nổ, ông thủ tướng Do Thái hết sức giận vì hệ thống tình báo danh tiếng Do Thái hoàn toàn bất ngờ nên không có phản ứng tức thời. Cùng với quân đội và dân chúng ngài thủ tướng rất hổ thẹn đã lên tiếng hết sức mạnh mẽ thề tiêu diệt hết kẻ thù.

    Xin đọc bài lên tiếng quan trọng sau đây gửi cho nhân loại, cho kẻ thù nhưng thực ra là gửi cho chính dân Do Thái đang căm hờn. Bài nói chuyện như sau.

    Bài phát biểu của Thủ tướng Israel – Benjamin Netanyahu Thủ tướng Israel – Benjamin Netanyahu nói rằng, đất nước mà Liên Hiệp Quốc cho chúng tôi là một sa mạc 65%, mà 60 năm trước, không có quốc gia, không có quân đội. Chúng tôi đã xây dựng “đế chế” nhỏ bé của mình từ không có gì. Lễ Vượt Qua vẫn luôn có ý nghĩa rất lớn với chúng tôi.

    Chỉ 70 năm trước, người Do Thái bị bắt làm thịt như cừu.

    60 năm trước, không có quốc gia, không có quân đội. Đất nước mà Liên Hiệp Quốc cho chúng tôi là một sa mạc 65%.

    35 năm trước, Chúng tôi chiến đấu với 3 quân đội hùng mạnh nhất ở Trung Đông, 7 nước Ả-rập tuyên chiến với nhà nước Do Thái nhỏ bé chỉ vài giờ sau khi thành lập. Chúng tôi 650,000 người Do Thái chống lại hàng triệu người trong thế giới Ả-rập nơi có quân đội hiện đại và nhiều vũ khí của Liên Xô.

    Chúng tôi:

    Không có lực lượng quốc phòng mạnh.

    Không có lực lượng không quân hùng mạnh để cứu chúng tôi mà chỉ có những người Do Thái dũng cảm không còn nơi nào để đi. Và chúng tôi đã quét sạch chúng trong 6 ngày.

    Ngày hôm nay chúng tôi có:

    Một quốc gia.  Một đội quân.  Một lực lượng không quân hùng cường

    Một nền kinh tế tiên tiến với xuất khẩu trị giá hàng tỉ đô la. Có Intel Microsoft IBM

    và nhiều công ty công nghệ cao phát triển các sản phẩm tiên tiến ở Israel.

    Các bác sĩ của chúng tôi nhận được nhiều giải thưởng cho nghiên cứu y học.

    Chúng tôi làm cho sa mạc nở hoa, và cung cấp cam, hoa, rau trên khắp thế giới.

    Israel đã gửi các vệ tinh của riêng mình vào không gian, 3 vệ tinh cùng một lúc

    Chúng tôi tự hào được xếp đồng hạng với: Hoa Kỳ, nơi có hơn 300 triệu dân

    Nga, nơi có hơn 140 triệu dân Trung Quốc, nơi có hơn 1,4 tỷ dân

    Tại sao Mỹ bảo vệ Israel bằng mọi giá?

    Có 14 triệu người Do Thái trên thế giới, 5 triệu ở Israel và 6 triệu ở Hoa Kỳ.

    Con rể của Clinton, Con rể Trump là người Do Thái,

    Hai con dâu và một con rể của Biden đều là người Do Thái.

    Chồng phó Tổng thống Mỹ là người Do Thái  

    Ngoại trưởng Kissinger và Ngoại trưởng Blinken là người Do Thái.

    Cục Dự trữ Liên bang đã là người Do Thái trong gần 50 năm.

    Thẩm phán tối cao Brandeis, ông trùm dầu mỏ Makefile,

    ông trùm chứng khoán người Do Thái Buffett,

    Giám đốc điều hành Goldman Sachs. Người sáng lập Facebook Xiaozhai Jew. 

    Page, người sáng lập Google, là người Do Thái.

    Một phần ba số triệu phú ở Hoa Kỳ là người Do Thái.

    80% quỹ tranh cử tổng thống được cung cấp bởi các tập đoàn Do Thái.

    Quyên góp tranh cử tổng thống,5 vị trí đứng đầu là các tập đoàn Do Thái.

    Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, tỷ lệ cử tri Do Thái đi bỏ phiếu là 90%.

    18 trong số 40 người đứng đầu danh sách Forbes là người Do Thái.

    Hơn 70% truyền thông Hoa Kỳ do người Do Thái kiểm soát.

    TV lớn là New York Times, Wall Street Journal và Washington Post đều do người Do Thái

    Chủ nhân Warner Bros., MGM, Columbia, Universal, Disney, là Do Thái.

    Bốn gia đình cổ đông của Cục Dự trữ Liên bang đều là người Do Thái.

    Kiểm soát ngân hàng lớn ở Châu Âu và Hoa Kỳ là những gia đình Do Thái.

    Trong 200 nhân vật nổi tiếng về văn hóa ở Hoa Kỳ. 100 là Do Thái.

    Người Do Thái chiếm 75% tổng số luật sư ở Hoa Kỳ.

    40% giáo sư tại các trường đại học danh tiếng ở Mỹ là người Do Thái.

    Hơn một nửa số người Mỹ đoạt giải Nobel là người Do Thái

    65% nha sĩ là người Do Thái.

    Người Do Thái, chiếm 2% dân số Hoa Kỳ, kiểm soát hơn 70% tài sản của đất nước này.

    Einstein, Oppenheimer, cha đẻ của bom nguyên tử,

    Taylor, cha đẻ của bom khinh khí, Von Neumann, cha đẻ của máy tính,

    Bohr, cha đẻ của vật lý nguyên tử và cơ học lượng tử,

    Hillard, người sáng lập lò phản ứng hạt nhân,

    Fleming, người phát hiện ra penicillin, người phát minh ra khí cầu,

    Người phát minh ra máy bay trực thăng, người sáng lập hóa học hữu cơ, nhạc sĩ Mozart, diễn viên Chaplin, Spielberg, đạo diễn đều là Do Thái

    David Ricardo, bậc thầy về kinh tế học cổ điển,

    Người sáng lập Estee Lauder, sáng lập Reuters, sáng lập Dell,

    Soros, người sáng lập Quỹ lượng tử. Starbucks,Intel, Công ty Anglo-Dutch Shell, Goldman Sachs

    và JPMorgan Chase, v.v.Đều là người Do Thái.

    Các cổ phiếu Buffett mua, bao gồm Disney, The Washington Post, Goldman Sachs,

    JPMorgan Chase, đều có Do Thái.

    Ý kiến một người Việt Nam. 

    Người Do Thái đòi chiếm lại  Palestine là nơi họ cư trú cách đây 3000 năm chẳng khác nào người Chàm và người Miên đi khắp nơi rồi quay về đòi lại miền Trung và miền Nam của chúng ta! Ai mà chịu được? Người Palestine đã chịu khổ quá nhiều rồi khi bị Israel chiếm đất và đuổi họ sang 2 bên, không thông thương được với nhau, dải Gaza rất khổ vì không có gì để sinh nhai! Người Do Thái còn mua đất vào sâu trong miền đông Palestine, ăn rỗ mảnh đất này, chẳng khác gì người Tàu xâm thực đất Việt Nam trong giai đoạn hiện nay! Tức nước vỡ bờ nên Hamas mới làm một cú như vậy, vùng dậy đòi quyền sống:

    Trên đây là những tin tức ghi nhận được.  

    Dưới đây cũng là những ý kiến thu lượm được. Tùy các bạn nhận định.

    1)Do Thái với tinh thần Do Thái giáo là sắc dân da trắng xuất sắc nhất ảnh hưởng tại Tây Âu và Hoa Kỳ nhưng thực sự không hoàn toàn hội nhập với quần chúng. Đã có một thời người Mỹ kỳ thị da đen và Do Thái. Trong thế giới da vàng tiến bộ và xa cách là Nhật Bản. Người Việt tỵ nạn không bao giờ hy vọng qua Nhật hay đến Do Thái để trở thành tướng lãnh hay dân cử. May thay, chuyện này chỉ có thể tại Hoa Kỳ.                                                                                                                             

    2) Ảnh hưởng của Do Thái tại Mỹ rất mạnh nên cả hai tổng thống 45 và 46 tuy thù nghịch nhưng đều đồng ý ủng hộ Do Thái. Cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ tuy khác biệt nhưng cũng ủng hộ Do Thái. Người Do Thái tại Mỹ 6 triệu dân còn nhiều hơn dân số tại nước Do Thái chỉ có 5 triệu. Mỹ giúp nước Do Thái lập quốc tại quê hương cũ Jerusalem miền Trung Đông vây bủa bởi 2 tỷ dân Hồi Giáo. Nếu không phải là dân Do Thái với tinh thần tôn giáo mạnh mẽ và mối thù hận qua La Mã và Phát Xít thì không thể tồn tại. Do Thái quả nhiên là một dân tộc anh hùng. Do Thái giáo là tôn giáo không chủ trương hòa giải và không quên hận thù.                                    

    3) Thủ tướng Do Thái thuộc phe diều hâu khi bị Hamas tấn công bất ngờ bèn vội vàng lên tiếng tiêu diệt kẻ thù. Tổng thống già của Mỹ vội vàng bay qua vuốt ve và tìm cách hạ hỏa. Ông Biden tuyên bố 4 điều quan trọng.                                                    

    Sẽ yểm trợ vòng ngoài với các mẫu hạm ngoài biển để ngăn chặn chiến tranh.                      

    Sẽ có tất cả mọi phương tiện dành cho Do Thái. Hoa Kỳ sẽ đủ sức yểm trợ cho cả 2 mặt trận bên Âu Châu và Trung Đông.                                                                                           

    Sau cùng ông già lẩm cẩm và hiền lành đã tuyên bố sự thực. Yêu cầu Do Thái tránh hành động sai lầm như Hoa Kỳ sau vụ 911. Đây là lần đầu tiên vị tổng thống Mỹ 46 nhìn nhận chính sách đau thương và sai lầm của các vị tiền nhiệm đối với thế giới Hồi Giáo tại Trung Đông. Trong lãnh vực tôn giáo, không thể nào lấy kinh cựu ước và tân ước để giải quyết được kinh Koran. Nga xô Viết đem kinh Mác Xít vào Trung Đông để tan xương nát thịt phải bỏ của chạy lấy người. Hoa Kỳ tưởng bở nhảy vào thay thế cũng lại bỏ của chạy lấy người còn thê thảm hơn.                                                      

    4) Bao năm qua dân Hồi Giáo đã tự nhận thân phận chậm tiến nhưng nằm trên các kho dầu sa mạc trở thành vàng đen của thế giới. Lấy cuốn Kinh Koran thiêng liêng để chống lại nền văn minh Âu Mỹ. Thành lập các tổ chức quyết tử lấy thân xác chống thế giới văn minh. Hết Al-Qaeda đến Taliban, Shiite rồi Hamas. Chưa bao giờ chiến tranh dùng vũ khí bằng người dân tình nguyện chết. Phe Âu Mỹ dứt khoát lên án đây là bọn khủng bố. Thiên hạ thông cảm nói rằng đây là vũ khí của kẻ yếu. Hãy so sánh giữa cái chết tức thời của đàn bà trẻ em vô tội bị bắn giết trực tiếp bởi chiến binh du đãng với đàn bà và trẻ em cũng vô tội bị chết rất nhiều dưới các cao ốc bị đổ nát vì bom đạn oanh tạc bởi các phi công anh hùng.

     5)Chuyện gì đã xảy ra sau khi Hamas ra tay khủng bố mà cả thế giới biểu tình chống dân tộc Do Thái đang là nạn nhân. Do Thái anh hùng chỉ trong 2 ngày đã tập hợp được 300 ngàn quân tại biên giới nhưng án binh bất động. Những trận không tập ngày đêm làm cho ngàn dân Palestine bỏ nhà di tản và phần lớn còn lại trốn dưới lòng đất. Đám dân đen khốn nạn nằm bên bờ đại dương vừa đói khát tối tăm tuy được đông đảo Hồi Giáo ủng hộ nhưng không nước nào thực sự đón nhận. Do Thái chưa thực sự đưa bộ binh vào đất Jerusalem nhưng đã nhận tin 5 nước Hồi Giáo bên cạnh từ lâu vẫn hưu chiến nay ra mặt tuyên chiến.

    6) Phải công nhận người Do Thái là dân tộc anh hùng. Nước Do Thái là một nước anh hùng. Người Do Thái là một sắc dân vô cùng khác biệt. Phải chăng tôn giáo đã hướng dẫn oán thù phải trả bằng mọi giá. Để xây dựng lại non sông là con đường đi tới, không lùi bước. Nhưng lần này, tuy không lùi bước nhưng rất cần dừng lại. Lịch sử mối thù truyền kiếp đã ghi lại. Nếu tận diệt được Hamas này sẽ lại có Hamas khác tiếp theo. Tiếp tục giết thêm bao nhiêu đàn bà trẻ em Palestine cho đủ món nợ chiến tranh. Ông tổng thư ký của tổ chức Liên Hiệp Quốc vô dụng đã xin hưu chiến. Do Thái lên tiếng yêu cầu Tổng Thư Ký từ chức vì tuyên bố vô duyên. Không ai có thể làm cho Do Thái anh hùng hạ hỏa. Người Do Thái phải tự quyết định dừng bước. Anh hùng không phải là luôn luôn đi tới mà phải biết dừng lại. Nhân loại rất cần tặng cho Do Thái một bộ thắng hết sức mạnh. Nếu không, thủ phạm của thế chiến thứ ba sẽ là Do Thái mà không phải Hamas.

    Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393

  • Minh Thúy

    Âm Dương Khó Giải 

    Âm Dương Khó Giải

    Tôi lớn lên từ khu xóm gần hồ Tịnh Tâm. Trong xóm tôi ở toàn các ông Giáo, ông Trợ,
    ông Phán, ông Nghè, ông Thông được ghép tên thật phía sau, và người ta thường gọi như thầy
    Trợ Hiếu, bác Phán Quỳnh ..v..v…Tôi xin kể về gia đình bà Thông Hợp và gia đình thầy Giáo
    Mạnh.

    Chuyện thứ nhất

    Cách đây hơn 50 năm về trước, nhà tôi ở đối diện với khu biệt thự kín cổng cao tường, có
    cây vú sữa rậm rạp um tùm phủ ngay cổng vào. Bà Thông Hợp phân chia rất nhiều ngôi nhà
    trong khuôn viên, dành cho các con lập gia đình sinh sống. Người con trai trưởng tên Hùng có vợ
    bốn con ở căn nhà cao, cửa sổ nhìn qua nhà tôi. Trông anh ốm yếu, nước da xanh mét, trên người
    luôn có vết bầm tím. Anh ít tiếp xúc với ai. Trước anh có đi dạy tiểu học nhưng sau bệnh hoạn
    triền miên nên ở nhà, vợ anh làm y tá.
    Mỗi đêm thỉnh thoảng vọng qua nhà tôi tiếng anh Hùng “tao cũng sẽ giết mi’, rồi nghe có
    tiếng như ai đấm đá nhau. Sáng ra người ta để ý mặt mày anh sưng vù, tình trạng như vậy hoài
    nên ai cũng quen mắt nghĩ anh bị bệnh tâm thần. Một lần mẹ tôi sai đem qua chị vợ chai nước
    mắm, đi ngang phòng giữa tôi thấy anh ngồi nói một mình. Tôi tò mò hỏi “không có ai sao anh
    nói chuyện vậy?”, chị buồn rầu “tối ngày cứ vậy hoài đó, bệnh chẳng thuyên giảm tý mô, chị mệt
    mỏi lắm”.
    Thế rồi mùa học thi gạo bài, hồi đó các anh lớn rủ nhau học dưới cột đèn ngoài đường.
    Đêm nào anh cả tôi cũng ngồi dưới cột đèn miệt mài ôn luyện. Bỗng một đêm vào khoảng hai,
    ba giờ sáng, anh chạy thình thịch vào bật đèn sáng thức cả nhà dậy. Anh hổn hển kể” con đang
    học, tình cờ ngẩng đầu lên thấy một người con gái tóc ngang lưng mặc bộ trắng toát đi vào ngõ
    nhà bà Thông Hợp, tưởng mình hoa mắt nhìn kỹ lại rất rõ ràng là cô gái đang đi, rồi nhìn theo
    xem cô đi tới đâu nhưng sau đó không thấy nữa, người lạnh xương sống chạy lẹ vào đây.”
    Từ đó anh không dám ra cột đèn nữa, mà mẹ tôi cũng cấm đoán các con khi trời chạng
    vạng không được bước ra đường nữa. Lúc vợ anh Hùng qua nhà mua sữa, đường, mẹ tôi kể nhỏ
    cho chị nghe. Chị rất mến mẹ tôi nên dặn giữ kín chuyện, rồi kể rằng: Hồi thanh niên anh Hùng
    có quen cô bạn học, hai người thương nhau nhưng bị bà Thông Hợp chê không được môn đăng

    hộ đối, nhất định không chấp nhận, sau cô kia thắt cổ tử tự chỉ mới mười bảy tuổi, và từ đó anh
    Hùng cũng bị bệnh ma vương không chữa trị được.

    Chuyện thứ hai

    Nhà tôi có bậc thềm xi măng rộng được che bóng mát rậm của cây nhãn. Mỗi trưa hè các
    bác trong xóm thường qua ngồi hóng gió và “tám” chuyện. Lúc nhỏ tôi có tật hay bung búi tóc
    của mẹ ra vọc và bắt chí, nên nghe được chuyện O Hương (em thầy Giáo Mạnh) cất căn nhà nhỏ
    trong vườn nhà anh.
    Con trai đầu O Hương học sư phạm Quy Nhơn quen cô nào trong đó, có đứa con trai
    bồng về ra mắt Nội. O giận lắm vì lỡ hứa kết sui gia với bạn, O không chấp nhận. Con trai O
    thuê nhà sau bờ thành hồ Tịnh Tâm cho mẹ con ở tạm, chờ tình hình giải quyết. Không ngờ O
    giận lẫy nghiêm khắc không nhìn mặt. Cô kia một đêm nọ dại dột cắt tay lấy máu viết lá thư
    tuyệt mạng, rồi bồng con đến cầu Bạch Hổ nhảy xuống sông tự vẫn, trong lúc cầu mới xây xong
    sắp khánh thành. O Hương hối hận lặng lẽ đến đem xác hai mẹ con về chôn, nhưng bị người ta
    chửi rủa quá, nên gia đình O dọn vào Nam sinh sống.
    Ngôi nhà hương hỏa thờ tự của thầy giáo Mạnh có khu vườn rất rộng, chính O Hương đã
    xây ngôi nhà nhỏ bên góc. Vợ thầy rất thân với mẹ tôi, thường qua lại, rủ nhau xem cải lương
    đoàn Kim Chung hát, xem xi-nê phim Tàu “Hồn Bướm Mơ Tiên”. Năm 1971 một hôm bác bị
    bệnh cảm cúm, sợ lây bệnh cho con nên muốn nằm ngủ ngôi nhà sau. Tự dưng nửa đêm anh
    Ngọc (con đầu) đang nằm ngủ chợt thức giấc thấy vạt lửa đỏ vụt qua khung cửa kính. Anh vùng
    dậy la làng tung cửa chạy theo dập lửa, bác gái chạy thật nhanh ra cổng, thì loạng choạng té
    xuống hố có vũng nước sau cơn mưa. Cả nhà thức dậy phụ bế bác gái vào đặt trên giường và gọi
    xe cấp cứu của bệnh viện. Trong lúc chờ đợi tiếng bác gái kêu gào hét lớn vang rõ trong đêm
    khuya “nói Ngọc đừng ra ngoài, công an đang ngồi trên nóc nhà rình bắt đó, Ngọc ơi không được
    ra ngoài.” Chỉ một câu đó bác gái lập đi lập lại, cả xóm không ai ngủ được vì tiếng thét hãi hùng,
    mẹ tôi mấy lần định chạy qua vì nóng ruột, nhưng anh tôi không cho sợ Nhân Dân Tự Vệ đang
    gác ngoài đường bắn lộn. Gần sáng xe cứu thương mới đến chở đi. Khoảng trưa xe chở xác về
    nhà, trên nệm những tấm da rớt lại từng mảng, mặt bác đen thui. Bác mất rồi thỉnh thoảng anh
    Ngọc chạy qua nhà tôi gọi mấy chị về, và đứng kể “tụi bây biết răng không? Tao bị ai xô xuống

    hố giống mạ lúc bị té rứa đó, hay là mạ xô không biết”, anh vừa kể vừa dơ tay chỉ mấy vết bùn
    dính áo trước sau, ai cũng sợ hãi im lặng hoang mang.
    Hai năm sau, một buổi sáng tôi còn nhớ rõ đang đi tới cổng nhà anh, xe bệnh viện đậu ở
    trước, thấy anh vừa đi vừa xoa bụng cười trả lời hàng xóm “đau bụng đi cầu nhiều lần chú ơi,
    qua bệnh viện khám thử xem”. Ai ngờ chỉ qua một đêm ngày mai xác anh được chở về (không
    biết có chính xác mà người thân nghi bị chích lộn thuốc). Trong khi thầy giáo Mạnh lại đi chơi
    xa trước đó một ngày. Thầy đi chẳng cho con cái biết tới đâu ở nhà ai. Các em anh Ngọc quá đau
    buồn chỉ biết ngồi khóc than trời đất. Các bạn dạy chung trường và bạn lính ra tay lo đám
    tang sắp xếp mọi bề. Anh Ngọc mất lúc 27 tuổi, đang dự tính lập gia đình với người bạn đồng
    nghiệp dạy chung trường.
    Ngày cuối cùng đưa đám xong thì buổi chiều từ đằng xa có bóng thầy Giáo Mạnh xuống
    xe lam đi bộ về. Một đám con nít bám đuôi theo thầy, bao nhiêu con mắt bà con lối xóm đều
    đứng đổ về phía thầy, tôi cũng đọc được trong ánh mắt thầy lộ vẻ ngạc nhiên lạ lùng. Vào cổng
    bước lên bậc thềm, đám nhỏ và người lớn cũng chạy theo. Thầy thấy quang cảnh khác lạ, phòng
    nhoi ra bên hông trái cây bàn thờ nghi ngút. Thầy thảng thốt thấy hình anh Ngọc trước khói
    hương. Thầy khóc gào “khốn nạn, người cha khốn nạn, đáng lẽ để ba chết, con phải sống Ngọc
    ơi, khốn nạn quá…” Thầy ngồi bệt xuống kể lể cho các con nghe: bốn hôm trước ba nằm ngủ, tự
    dưng thấy hai ông cầm giáo mác mặc quần áo màu đỏ đến đứng đầu giường nói “ta đến bắt nhà
    người đi, nhưng chưa tới số, hai hôm nữa sẽ trở lại đón”. Thầy thức dậy hoảng sợ quá, lặng lẽ
    dọn hành lý trốn con cái vào Phan Rang chơi với bạn không cho ai hay, như đi trốn lời cảnh báo
    của hai ông áo đỏ.
    Từ đó đến nay không nghe chuyện gì xảy ra nữa. Ngôi nhà buồn tênh vì các chị em gái đi
    lấy chồng xa. Chỉ còn em trai út lấy vợ nối tiếp thờ tự hương hỏa. Cô dâu út rất mộ đạo, hay đi
    Chùa tụng kinh niệm Phật, làm công quả giúp các hội từ thiện. Có lẽ cô đã cúng bái cầu siêu các
    vong hồn người mất nên được yên ổn chăng?
    Chuyện âm dương thật khó hiểu và huyền bí

    Minh Thúy Thành Nội
    Tháng 10/2023

  • Huệ Thu,  Minh Thúy,  Phương Hoa,  Tin tức

    Vĩnh Biệt Nhà văn Diệu Tần

    Nhà Văn Diệu Tần NGUYỄN TINH VỆ

    Pháp danh: THIỆN PHỔ

    Cựu Sĩ Quan Công Binh /QLVNCH

    Ông cũng là Nguyên Đệ Nhất Phó Chủ Tịch VBVNHN

    Sanh ngày 9 tháng 10 năm 1932 tại Hải Dương, VN.

    Đã từ giã Anh Chị Em Văn Nghệ vào Thứ Năm. ngày 19 tháng 10 năm 2023, tuần vừa qua.

    (nhằm ngày mùng 5 tháng 9 năm Quý Mão)

    Tại San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ.

    Hưởng Đại Thọ 92 Tuổi

    Tính tình Ông rất hiền hòa, hòa đồng, ăn nói nhỏ nhẹ, dễ thương, đễ mến với tất cả Anh Chị Em trong VTLV. Mới cách đây vài tháng, trong một cuộc sinh hoạt, Ông đã tặng mỗi người một tác phẩm, có tên “Thành Ngữ & Việt Ngữ”. Không ngờ, đây lại là lần cuối cùng sinh hoạt với VTLV của Ông!

    Sự ra đi của Ông, là một mất mát lớn cho VTLV nói riêng, cho văn học VN nói chung. Ông chuyên viết sách giáo khoa trước 75 và sang Hoa Kỳ, giảng dạy tại Viện Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng tại Monterey, Ca. Ông là cây bút gạo cội, viết văn từ 1955!

    VTLV chúng tôi, thành kính chia buồn cùng Tang Quyến.

    Nguyện cầu cho Anh hồn Nhà Văn Diệu Tần sớm về nơi Vĩnh Phúc

    Thành Kính Phân Ưu và Vô Cùng Thương Tiếc

    Tiễn Biệt Bác Diệu Tần

    Mưa sầu trắng xóa phủ ngoài sân

    Nhận được nguồn tin bác Diệu Tần

    Bỏ lại anh em buồn hết kể

    Ra đi bạn hữu tiếc vô ngần

    Văn Thơ cổ thụ chương tràn ý

    Lạc Việt cây cao phú ngập vần

    Thiện Phổ cầu xin về cõi Phật

    Hương lòng tiễn biệt kính thành dâng

    Minh Thúy Thành Nội

    Tháng 10/22/2023

    Chào Vĩnh Biệt Nhà Văn Diệu Tần

    Nhà văn Diệu Tần ra đi rồi!

    Bệnh già hết chữa thế là thôi…

    Văn chương nhắc nhớ thời dâu biển

    Sách vở lung linh cuộc đổi đời!

    Tỵ nạn… mưu sinh nghề dạy học

    Hồi hương mong ước bóng mây trôi!

    Sức mòn tuổi hạc làm sao trốn?

    Bằng hữu thương anh, nhớ nụ cười!

    Huệ Thu & Bùi Ngọc Tô

    Truyện Ngắn: Đỉnh Hải Vân

    Diệu Tần

    Lóng ngóng chờ xe đi nhờ vào Quảng Ngãi, trung uý Đỗ Thanh Đào, ban tham mưu một trung đoàn đóng ở miền núi Ba Tơ, vừa mệt vừa đói. Những nắm cơm cô em gái Đào nắm cho khi rời quê, Đào đã ăn hết nắm cuối cùng ở thị trấn Đông Hà này rồi.

    Đào thấy một đoàn năm xe tải bộ đội có mui che kín mít phóng trên đường số 1. Mừng trong bụng, Đào đứng sát lề đường bụi dơ dơ tay vẫy xin quá giang. Gặp xe quân đội là không lo tiền vé xe, lại còn có thể đi thẳng đến thị xã Quảng Ngãi không biết chừng.

    Từng chiếc xe phóng tung trời, trên buồng lái còn có bóng phụ nữ. Không chiếc nào dừng lại đón Đào cả. Kẻ lái chiếc xe sau cùng còn ngoái cổ lại, trợn mắt quát:

    – Muốn chết hả? Sao đứng ra ngoài đường.

    Đào chán nản vào mái hiên một quán ăn ngồi nghỉ. Khát khô cả họng, lại thêm bụi đường bắn vào miệng mũi làm Đào thở khèn khẹt. Dù gì cũng phải uống hớp nước, đói có thể cầm cự được chứ khát khó nhịn. Chiếc bình đông nước đem theo đã cạn, chàng trung uý đi phép về lại đơn vị, bước vào quán nói nhỏ với cô đứng trong quầy:

    – Chị làm ơn bán cho tôi mấy trăm đồng nước chè.

    Cô gái ngạc nhiên trả lời:

    – Chúng tôi không bán nước trà, chỉ bán cơm thôi. Anh ăn cơm rồi uống trà khỏi trả tiền.

    Đào nhăn nhó:

    – Tôi ăn no rồi, chỉ cần nước uống thôi.

    Cô gái nhìn ông khách bộ đội như nhìn một vật lạ:

    – Anh đưa bình đây tôi lấy cho, khỏi trả tiền.

    – Cám ơn chị nhiều.

    Đào lại ra phía hè ngồi uống nước. Loáng thoáng Đào nghe một nhóm bốn người, một đàn bà, ba đàn ông từ quán bước ra, nói chuyện. Người đàn bà hơi đẩy đà có nước da thật trắng, cặp mắt lẳng lơ, dáng chừng là chủ xe, nói:

    – Cơm rượu no đủ rồi, lái cho ngon lành nhe anh.

    Người chồng:

    – Bảo đảm, em thấy có bao giờ anh gây ra tai nạn không?

    Một thanh niên, có lẽ là người em:

    – Đi một lèo đến Huế hãy ăn cơm tối. Từ đó em sẽ lái thay anh.

    Nghe được câu chuyện, Đào đứng bật dậy, hỏi người đàn bà:

    – Thưa chị, chị làm ơn cho tôi đi nhờ vào Huế được không ạ?

    Người đàn bà nhìn Đào từ đầu xuống chân như nhìn kẻ ăn mày:

    – Xe chúng tôi chạy về Quảng Ngãi. Anh muốn quá giang cũng được.

    Đào mừng quá:

    – Xin chị cho theo vào Quảng Ngãi luôn. Cám ơn anh chị quá.

    Người chồng nhìn Đào với vẻ nghi ngờ, cái nhìn đánh giá thật thấp:

    – Chúng tôi đi còn ghé nhiều nơi, mất nhiều thì giờ lắm.

    Chỉ sợ mất dịp may hiếm có, Đào cầu khẩn:

    – Thưa đi bao lâu cũng được. Bộ đội quen vất vã cực nhọc rồi.

    Người chồng không nhìn lại, tặc lưỡi:

    – Ồ, muốn đi thì leo lên xe.

    Đó là một chiếc xe tải cở nhỏ, có càng bịt kín. Người phụ lái là Lợi và người em tên Cường cùng với Đào ngồi phía sau. Vợ chồng Hoa và Mai ngồi buồng lái.

    Thế là gặp may, không còn lo chuyện đón xe đi nhờ nữa, lại được về đến Quảng Ngãi. Đào ngồi thở, nhớ đến tia nhìn của vợ chồng chủ xe lúc nãy. Ngẫm lại bản thân, Đào thấy mình bị đánh giá thấp cũng không có gì là lạ. Toàn con người Đào phủ một lớp bụi đỏ từ mũ đến đôi giày vải rách. Đào đã cẩn thận gở quân hàm hai sao vàng một vạch ở ve áo ra rồi. Chỉ còn cái mũ mềm trên đầu là không tháo được huy hiệu sao vàng trong vành tròn vàng ra được, cho người tinh ý biết Đào là sĩ quan quân đội nhân dân.

    Khác với dự tính, để tranh thủ thời gian, họ không ghé thành phố Huế. Chiếc xe chỉ ghé lại ở một ngã tư trên quốc lộ. Bốn người vào quán ăn cơm. Lợi, người phụ xe hỏi Đào:

    – Tối rồi, vào ăn cơm chứ?

    Đào ấp úng:

    – Mời các anh chị cứ tự nhiên. Tôi sẽ ăn sau.

    Mai lẩm bẩm, nhưng Đào nghe được:

    – Cái ngữ này không có tiền vào quán đâu. Kệ hắn.

    Đào đói lắm, cũng phải mua tí cơm bỏ bụng chứ chịu gì nổi. Trước khi rời nhà cô em gái dúi cho Đào hai mươi nghìn đồng, tiền bán đàn gà.

    – Anh ăn hết cơm nắm rồi mua cơm dọc đường kẻo đói chết.

    Đào chưa mua cơm đã mua hết ba nghìn tiền thuốc rê Cẩm Lệ rồi. Tật hút thuốc rê của Đào là đầu mối bất hoà giữa người chủ xe và người đi nhờ xe.

    Mùi khói rẻ tiền khét lẹt khiến Hoa phát ho, tuy mụ ta đã ngồi trên buồng lái. Mai quay lại hỏi:

    – Anh hút thuốc gì khét quá thể. Làm ơn bỏ đi dùm.

    Đào cố hút cho xong điếu thuốc. Mai lại nhắc:

    – Làm ơn quay ra sau hút đi, thuốc gì hôi quá!

    Đào bực lắm, nhưng ở thế kẹt, đành chịu. Một lúc sau nhảy ra xe, Đào chọn một quán nhỏ nhất, rụt rè bước vào bảo nhỏ bà bán quán:

    – Bà làm ơn bán cho tôi ba bát cơm trắng, tôi có thức ăn ngoài xe.

    – Không bán cơm trắng anh ơi. Để cơm bán cơm dĩa cho khách. Anh ăn cơm dĩa đi, sườn hay gà.

    – Thôi làm ơn mà, bộ đội về phép làm gì có nhiều tiền.

    Bà quán lại ngó Đào như một quái vật vừa ngạc nhiên vừa thương hại. Trả một ngàn đồng lấy ba bát cơm trắng, Đào quay đi nghe được câu nói:

    – Biết đi bộ đội ít tiền thì đừng có đi nữa được không?

    Đào trèo lên sau xe, lấy muổng nhựa xúc cơm ăn ngấu nghiến. Bà quán thương tình người ít tiền đã rưới vào cơm cho một ít nước mắm pha. Đào ăn ngon lành, xong làm một hớp nước trà. Nhìn trước nhìn sau chủ xe chưa ra, Đào lấy điếu thuốc rê ra hút cho mau. Đang mơ màng, bốn người đã kéo ra xe. Mai hít thấy hơi khói, nhăn mặt khó chịu:

    – Tôi đã nói anh đừng hút nữa. Anh muốn ngồi trên xe này thì nhịn thuốc đi, còn thích hút, xin mời anh đón xe khác.

    Tuy giận lắm nhưng Đào đành chịu, nói nhỏ và vất điếu thuốc đi.

    – Xin lỗi anh, tôi không hút nữa.

    Lợi móc bao thuốc lá Winston ra bảo:

    – Này, bạn hút một điếu cho vui.

    Trong đời, chưa bao giờ Đào dám hút một điếu thuốc thơm nước ngoài, run run đở lấy điếu thuốc có sợi vàng óng.

    – Cám ơn chú quá, chú Lợi.

    Cường cầm tay bánh thay cho Mai. Họ bảo Đào lên ngồi ca bin chung với Lợi, lấy chỗ sau xe cho vợ chồng Mai, Hoa ngủ. Đào tình cờ nhìn thấy Hoa xách xuống một túi vải căng phồng, đồng thời còn bắt gặp một khoảng da thật trắng ở eo áo. Chàng trung uý độc thân rùng mình vì khoảng da thịt ấy. Xe chạy một quãng, Đào nghe tiếng lục cục sau xe cùng tiếng cười rúc rích.

    – Này đừng có lộn xộn, anh kỳ quá.

    Tiếng cười đàn bà trẻ đối với Đào lúc này thật khêu gợi. Ngót bốn chục tuổi đầu vẫn chưa có tiền lấy vợ. Đào nghèo quá, nghèo rớt mùng tơi. Thèm lấy vợ nhưng đào đâu ra tiền? Lấy gái tân trẻ, đã không dám mơ đến, có một hai đám goá chồng, Đào gấm ghé, bị họ từ chối khéo. Chỉ vì lương trung uý phải sống rất chật vật. Ăn cơm trong trại, mặc quần áo bộ đội, hút thuốc rê, không bao giờ dám uống rượu và cà phê. Đào gầy và đen, tóc lấm tấm bạc, nhất là ở tóc mai, trông như người đã năm mươi tuổi. Ở vùng Ba Tơ, Gia Vực rất hiếm người Kinh, chỉ có các cô gái Thượng. Một hôm tình cờ nhìn được cặp vú to đen nhẫy, tròn căng của cô gái Thượng tắm vòi nước ngoài khe đá, Đào xúc động tình dục quá chừng. Từ đó Đào hay lò mò ra các khe có vòi nước.

    Quay qua hỏi chuyện Lợi, do Đào biết chỉ có Lợi là không ghét mình.

    – Các anh chị đi công tác đâu về đấy?

    Cường hừ một tiếng:

    – Công với tư tác gì. Thời buổi này còn đi công tác là đói dài dài. Cứ diễn vai công nhân, bộ đội hoài là đi tàu suốt.

    Lợi trả lời thêm:

    – Đem hàng ra Vinh bán ấy mà. Cất đường thẻ và đường phổi Quảng Ngãi ra bán cho các cửa hàng tư nhân ngoài ấy.

    Cường lườm Lợi:

    – Sao mau miệng thế? Bị chửi mãi vẫn cái tật không chừa.

    Đào xì xầm nói chuyện với Lợi và Cường, chợt có tiếng nói ở phía sau:

    – Nói nhỏ cho người ta ngủ. Cả cái anh bộ đội nữa, không biết điều gì cả. Cho đi nhờ xe cứ oang oang cái mồm. Kỳ quá!

    Đào phải im, không dám nói chuyện nữa. Tuy xe xóc, nhưng Đào cũng thiu thiu ngủ. Trong cơn chập chờn, loáng thoáng nghe Lợi và Cường thì thầm.

    – Chuyến này ông Mai vớ bở.

    – Có lời đến vài “tê” không?

    – Cỡ độ năm “tê” là ít. Dân Hà Tĩnh, Nghệ An thấy đường như mèo thấy mỡ.

    – Tay bộ đội này ngủ ngon lành nhỉ? Ông bà ấy cũng ngáy đều rồi.

    Độ năm giờ sáng trời còn tờ mờ, Đào thức giấc. Tiếng nói chuyện vẫn rì rầm.

    – Ông bà ấy du dương trên xe được tài thật!

    – Lại muốn nghe chửi à?

    Đào quay lại sau xe còn thoáng thấy bắp chân trắng mờ mờ của Hoa. Người cán bộ quân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam lại lờ mờ chìm vào giấc ngủ. Trong cơn mê thấp thoáng bộ ngực đen bóng và bắp chân trắng ám ảnh. Đào thức giấc vì tiếng ho và tiếng Mai chửi:

    – Cha tiên sư hai thằng quỷ không cho chúng tao ngủ, nói chuyện rầm rầm.

    Cường bào chữa:

    – Không nói chuyện nhỡ buồn ngủ leo xuống đèo là chết cả đám.

    – Câm cái mồm mày lại, còn cãi hả? Còn cái người kia hút thuốc rê phun vải trong xe, hôi quá không ngủ được.

    Đào thấy cần phải lên tiếng:

    – Từ lúc anh dặn, tôi có dám hút nữa đâu!

    – Không hiểu sao có người có thể hút thứ thuốc vất đi đó được. Bận sau gặp cỡ này, xin vái cả nón không dám cho đi nhờ.

    Bị chạm tự ái, Đào phản ứng:

    – Anh nói thế chứ, tôi ít tiền hút thuốc rê, anh có nhiều tiền hút thuốc thơm. Có gì lạ đâu?

    Nghe giọng lý luận của đối phương, Mai càng tức:

    – Khi nào anh có xe riêng hay ngồi xe bộ đội, hút gì mặc xác anh. Còn đi xe tôi là không được hút.

    Đào vẫn nén giận:

    – Anh cho tôi đi nhờ, nhưng anh hơi thiếu lịch thiệp.

    – Vậy đó, có tức thì đón xe khác đi. Chỉ cần lịch sự với người lịch sự thôi.

    Nếu bỏ xe này, Đào nghĩ biết bao giờ gặp xe khác dọc đường bằng lòng cho quá giang lúc tờ mờ sáng này. Còn đúng mười sáu nghìn đồng trong túi làm sao đủ tiền mua vé xe hàng về đến đơn vị, chưa kể tiền ăn dọc đường. Đào đã phải nhịn ba năm rồi vay thêm tiền bạn bè mới đủ tiền vé một lượt về Thanh Hoá. Đào nói nhưng không rời khỏi xe.

    – Tôi có làm gì bất nhã đâu, anh đừng nóng chứ!

    – Không bất nhã à, vợ chồng người ta ngủ cứ bô bô cái miệng. Phun khói hôi như chuột chết vào xe người ta, còn lý sự cùn.

    Đào giận tím mặt, không nói được câu nào nữa. Hoa lên tiếng:

    – Thôi người ta im rồi, sao anh nóng quá. Thôi, nằm xuống nghỉ đi cưng.

    Có tiếng hôn và tiếng cười khúc khích của Hoa. Đây là lần và chạm mạnh và lâu với đời thường bên ngoài. Ở ngoài đời người ta sống thoải mái nếu có tiền. Ăn uống phủ phê, rượu, thuốc lá thơm, đàn bà đẹp lại có cả túi tiền. Ăn ngủ đi lại tuỳ tiện. Còn Đào, nếp sống đơn vị chẳng những chật vật vì đồng lương, còn sống lên gân, giả tạo. Bỗng Đào thấy mình bị lừa dối kinh khiếp. Cơn giận của Đào không bùng lên bằng lời nói được. Nước da đen tái lúc giận chuyển sang màu tím xanh như người chết vì bị sét đánh. Phải nén giận làm bàn tay Đào run run, hai cánh môi cũng run run. Bất giác Đào đụng phải bao súng cứng trong túi xách. Chắc phải nổ súng mới hả được giận. Đào không đeo súng, đã cất đi, nghĩ rằng nếu đi xe quân đội hay xe hàng mới tiện đeo quân hàm và đeo súng hẳn hoi. Trong giấc mơ vừa rồi thân thể hở hang phụ nữ đã làm Đào dâng lên một thèm muốn khó tả. Đang bị dồn nén, ẩn ức cả về nghèo đói, tiền bạc, bị lừa bịp bằng lời nói, lại bị những lời xỉ vả của một kẻ đắc thế. Mặt Đào nóng bừng bừng. Hoa lại dại dột hôn hít vuốt ve chồng, Đào cho đó là một xúc phạm, cũng như Hoa đã khơi động nỗi đau thầm kín của Đào là đã vô tình để hở những khoảng da thịt kêu gọi. Đào chợt nhớ đến cái túi xách căng phồng, lúc nào cũng được đeo sát người Hoa, kể cả lúc đi ngủ.

    Lời năm triệu, ít nhất cũng phải có gấp đôi như thế tiền vốn. Đột nhiên ý định giết người lại bùng lên. Một công hai việc. Phải giết thằng chồng đã dám hỗn hào chửi rủa mình. Từ khi đeo quân hàm sỹ quan đến giờ, chưa bao giờ Đào bị xỉ vả nặng thế. Luôn luôn được nghe lời khen tặng, tâng bốc, nịnh bợ, tuy biết là giả dối, từ nhân dân và anh em đội viên. Sẽ lấy túi tiền trốn về quê trở lại, ai biết được. Ông bố đã ngoài bảy mươi ốm yếu. Đứa em gái làm nông không đủ sống. Nó không đẹp lại nghèo không lấy được chồng. Ít nhất trong túi kia phải có mười triệu đồng. Giời ơi! Chưa bao giờ Đào có trong tay một trăm nghìn chứ đừng nói mười triệu đồng. Sẽ đem tiền về quê kéo ông bố và đứa em gái trốn ra Hà Nội hay Hải Phòng, thay tên đổi họ, xin thường trú, vào hộ khẩu đút lót độ mười vạn đồng là xong.

    Thấy ánh mắt kỳ lạ của Đào, Lợi vỗ vai:

    – Này hút điếu thuốc thơm cho đỡ buồn.

    Hơi thuốc thơm, Đào bớt run tay, nhưng vẻ sang quý của điếu thuốc lại càng thúc giục ý định phải nổ súng.

    Cường cho xe ghé Lăng Cô để ăn sáng, trước khi leo đèo. Khác với dự đoán của bốn người, Đào đường hoàng bước vào quán, ngồi bàn riêng lặng lẽ gọi một tô bún bò và một ly cà phê sữa nóng. Trước khi đoạt mười triệu, còn mười sáu nghìn lẻ tiêu cho hết. Khi Đào ăn thêm chiếc kẹo mè xửng, mua đem theo hai đòn bánh tét rồi cho hết tiền lẻ chủ quán là lúc số phận Mai, Hoa, và Cường đã được quyết định. Đồ ăn thức uống thơm ngon thế này tại sao nửa đời người mình cực khổ nhịn thèm như một nhà tu? Nhưng phải tha thằng Lợi, chú em dễ thương, đã biết mời mình hai điếu thuốc thơm.

    Từ lúc lên xe để leo đèo không ai nói chuyện nữa. Đào ngầm quan sát chờ cơ hội, chờ địa thế tốt. Hoa bám chặc cánh tay Mai bước lên xe. Thằng Cường nhìn Đào vẻ chế nhạo, nghèo mà ham. Lợi thì thắc mắc không hiểu sao Đào lại ăn sang thế. Theo lệnh Mai, Lợi ra sau xe để Cường lái không bị vướng víu. Gió thổi vù vù, tay lái Cường khá vững. Hắn phanh ken két ở những khúc quanh gắt. Mùi thuốc thơm phảng phất. Đào quay ra hít thở không khí trong lành bên ngoài. Mây và sương còn phủ kín đỉnh đèo. Sương là đà xuống ngang mắt Đào, mát lạnh. Những giải mây từ trên cao như những giải lụa trắng. Cuộc đời trong sáng đẹp biết bao! Cảnh vật hùng vĩ biết bao, tại sao phải sống nghèo? Nghĩ đến cái nhục qua những ánh mắt khinh rẻ, thương hại, những câu chì chiết nặng nề, Đào lại bừng bừng nổi giận. Vỗ vỗ vào túi xách rồi mở sẵn nút cài, Đào yên tâm khẩu P38 vẫn nằm bên trong. Đến một khúc có đất rộng bằng phẳng, Đào cúi xuống thật nhanh rút súng lên đạn dí vào nách Cường gằn giọng:

    – Đến chỗ kia đậu lại nếu không tao bắn mày ngay.

    Cường kinh ngạc tột cùng, cho xe đậu lại chỗ Đào muốn.

    – Tắt máy đi.

    Cường theo lệnh nhưng lại phác cử chỉ chống đối bị bắn ngang hông gục trên tay lái. Đào tung cửa chạy vòng ra sau, không nói không rằng nhắm bắn Mai trước lúc hắn định nhảy xuống cửa sau xe. Sức Mai khá mạnh bị bắn trúng ngực nhưng vẫn nhào vào Đào. Đào ngã nhưng chồm dậy đuổi theo Hoa đang lạch bạch chạy xuống dốc. Một phát vào đầu, nạn nhân chết ngay. Đào chạy trở lại xe, Mai vẫn chưa chết hẳn, được tặng thêm một viên kết liễu. Chừng đó thời gian đã đủ cho Lợi chạy được một quãng xa. Đào dơ tay gọi loa:

    – Tha cho chú, chú Lợi.

    Lợi cắm đầu chạy về phía Lăng Cô. Quay về xe Đào giật lấy cái túi vải. Mở ra Đào loá mắt, tiền 1000 và 5000 đồng đầy ăm ắp. Thay băng đạn khác vì đã bắn đi bốn viên. Tiếng súng nổ nghe đanh và lạnh, buổi sáng vắng lặng đã vang đi xa.

    Giám đốc công an Thừa Thiên-Huế, đại tá Nguyễn Hồng Bàng đích thân chỉ huy cuộc vây bắt hung thủ. Lão huy động một lực lượng hùng hậu gồm cảnh sát điều tra, cảnh sát đặc nhiệm, có vũ trang tiểu liên, cảnh sát giao thông và hình sự kinh tế. Đồn bộ đội biên phòng trên đỉnh đèo cùng phối hợp với cảnh sát, cộng thêm công an huyện Phú Lộc và xã Lộc Hải. Bàng còn gọi máy xin công an Quảng Nam – Đà Nẵng tiếp tay vây ở phía Liên Chiểu. Lão bố trí các ổ mật phục, người đón lõng ở các ngã đường, bến xe, ga xe lửa, phối hợp với bao vây truy lùng. Bàng quyết bắt cho được Đào để lấy tiếng, bởi lão đang nhắm vào ghế trưởng khối hình sự kinh tế, một chỗ hái ra tiền và có cơ được lên tướng.

    Quá mệt, Đào lẫn vào một khe suối cách đường nhựa vào khoảng ba cây số, còn nghe tiếng xe chạy vi vút bên ngoài. Giở túi ra đếm được tất cả 14 triệu 780 nghìn đồng, con số vượt xa ước đoán của Đào. Đào chưa có đủ thời giờ để hối hận, còn quá sung sướng với số tiền quá lớn. Niềm sung sướng trộn lẫn với lo lắng làm sao trốn thoát và bảo vệ được số tiền. Có đầu óc quân sự, Đào tính như sau: Chúng nó sẽ bao vây và chú trọng mặt Bắc, mặt Lăng Cô cho rằng mình sẽ đi xuôi xuống đèo để trốn về Thanh Hoá. Vậy mình sẽ vượt tắt đường đèo đi về phía Nam, nhưng cuối cùng Đào lại đổi ý, vì đi về Nam lại càng xa quê hơn, thêm khó ra. Đào uống hớp nước rồi tiếp tục vượt suối leo đèo lướt lên lau lách. Sẽ phải thay hình đổi dạng, thuê cho được xe, bất cứ xe nào, đi cho khỏi địa bàn Thừa Thiên. Khỏi Thừa Thiên coi như đã thoát, Đào sẽ ghé từng thị trấn mua vàng lá, rồi thuê xe con trốn về quê.

    Cơn giận qua, bốn phát súng đã giải tỏa được nỗi dồn nén, căm hận. Đào không còn nhớ đến Mai, Cường, chỉ nhớ đến khoảng da bụng trắng nõn của Hoa nằm chết trên lề đường, và nhớ đến hai điếu thuốc ngoại đầy tình nghĩa Lợi cho. Đào tiếc rẻ đã quá nhân đạo với Lợi, tha cho Lợi. Chính Lợi bây giờ là nguồn tin tức cho công an. Phải chi mình bắn nó luôn cho tịt ngòi truy tầm. Băng đèo lội suối đến sẫm tối, đến đâu mệt thì ngồi thở. Đào đã vất bao súng, vất mũ và cả hai túi xách đi. Thay bộ áo quần dân sự, lấy một áo sơ mi làm thành tay nải đựng tiền. Đào ăn một đòn bánh tét rồi uống hết nước trà, xuống suối lấy sẵn một bình đông nước khác để phòng xa. Khẩu súng ngắn đã được giấu trong thắt lưng. Mình sẽ đem vàng về phụng dưỡng bố già, nuôi em cấp vốn cho buôn bán. Riêng mình sẽ là một người mới, sẽ chọn một cô vợ trẻ biết kinh doanh, sẽ mua một ngôi nhà nhỏ. Tương lai màu hồng ấy động viên thúc giục Đào đi băng băng quên cả lau lách cắt ống chân, quên cả hiểm nguy đang chờ đón. Sẽ không còn ai dám khinh mình nữa, Đào thấy rõ một điều từ xưa chưa được thấy. Ở xã hội đảo điên bát nháo này giá trị đồng tiền là mạnh nhất, trong khi người ta cứ lừa dối nhau bằng những mỹ từ cao đẹp. Thằng Mai là cái thá gì mà dám khinh mình. Mình vào sinh ra tử, còn nó làm gì trong chiến tranh vừa qua? “Biết ít tiền thì đừng có đi bộ đội nữa được không?” Đây là một chân lý rành rành. Đào thấy rõ là mình bất lực, không có vây cánh, chỉ lý luận hảo để hai mươi năm qua mới leo lên được trung uý. Bạn bè và đàn em Đào, có ô dù lên vùn vụt. Bởi họ kiếm được tiền bất hợp pháp và biết nộp cho ô dù. Còn Đào lý tưởng quá, ngây ngô quá nên mới bị khinh rẽ, bị bỏ quên. Như thế vụ bất hoà, cơn dồn nén vừa qua chỉ là một cái cớ phụ, như giọt nước đầy tràn. Nói theo kinh điển chỉ tất nhiên như hủy thể của một hủy thể, mâu thuẫn đột biến để biến hoá thôi.

    Chín giờ tối, Đào tìm được đến ga Bắc Hải Vân, nhưng không định đón tàu đi ra Huế. Đi bằng phương tiện này dễ bị tóm cổ. Đào đứng hỏi thăm một người dân bên ngoài ga, định tìm chỗ ngủ để sáng mai thay hình đổi dạng thuê xe lam đi Quảng Trị rồi sẽ ra thẳng Thanh Hoá. Chỉ hành động riêng lẻ, không kế hoạch nghiên cứu dự trù trước, Đào có rất nhiều sơ hở và sẽ gặp nhiều khó khăn không thể vượt qua được. Nhưng chuyện đã lỡ, đâm lao phải theo lao.

    Bỗng có ánh đèn pin rọi loang loáng về phía Đào. Một sĩ quan công an tiến đến đòi kiểm trả giấy tờ. Đào định bỏ chạy nhưng đã muộn, từ ba phía đã có ba công an khác vây lại. Đào cố bình tĩnh tìm cách đối phó.

    – Anh không có quyền kiểm tra tôi, tôi là cán bộ quân sự.

    – Cứ đưa xem, anh đang mặc quần áo dân thường.

    Đào đưa ra giấy chứng minh và giấy phép, có ghi rõ: “Trung uý Đỗ Nguyên Đào tức Đỗ Thanh Đào, sinh năm 1954 quê ở Thọ Xuân, Thanh Hoá.” Đào trì hoãn để tìm giây phút thuận tiện chống trả.

    – Anh cho kiểm trả cả cái túi kia nữa.

    – Anh không có quyền, gọi đội kiểm soát quân sự đến đây nói chuyện.

    – Cướp của giết người trên đỉnh đèo, trốn sao được, còn già lọng.

    – Tôi cấm anh không được vu oan cho một sỹ quan quân đội nhân dân.

    – Là nghi can và chắc chắn là tội phạm, anh không đáng hưởng quy chế cán bộ quân sự.

    – Tôi thách anh đụng vào sở hữu của tôi. Tôi sẽ kiện anh đến Viện Kiểm Sát cao nhất.

    Nhanh như cắt, Đào thò tay vào túi rút súng ra, nhưng đối phương còn nhanh hơn. Hắn dùng một thế võ quật sấp Đào xuống, tước khẩu P38. Hai người khác đã dí súng vào lưng, và người thứ ba lấy còng số tám khoá tay Đào lại. Đào biết mình đã thất bại, thất bại hoàn toàn, thất bại một cách rất mau chóng và dễ dàng, không buồn vùng vẫy cựa quậy nữa. Tổ trưởng công an tháo băng đạn và tìm thấy hai viên trong túi tiền. Hắn lẩm bẩm:

    – Bắn bốn viên còn lại hai viên lẻ là đúng rồi. Làm xấu tiếng quân đội. Cán bộ gì đi cướp của giết một hơi ba mạng?

    Đến phút này lại càng bị khinh khi, Đào lại nổi giận, giận bản thân đã để bị bắt dễ dàng. Đào được kéo ngồi dậy, bèn nhảy tung lên đá vào cạnh sườn tên tổ trưởng thật mạnh và hét:

    – Công an chúng mày thì có gì hơn?

    Một báng súng AK giáng vào ngực Đào. Những ngôi sao li ti lóe quanh đầu, Đào ngất đi. Hồi sau không rõ mê hay tỉnh, Đào lờ mờ thấy mình đang lênh đênh trên biển Lăng Cô ngồi trên bè với cô gái Thượng ngực trần, rập rền rập rền sóng nước. Đó là khi Đào đã bị vất lên xe giải về Huế. Trong sóng nước mù xa, như sương sa, như mây vờn trên đỉnh Hải Vân, chập chờn khuôn mặt ông bố nhăn nheo với chòm râu bạc lưa thưa, khuôn mặt cô em gái xanh xao đầy nước mắt. Lãng đãng đâu đây, Đào nghe tiếng cười lẳng lơ và thấy ẩn hiện bắp chân trắng của Hoa. Những con mắt lần lượt hiện ra và chiếu vào Đào, ánh mắt lái xe bộ đội dọa nạt, ánh mắt hai phụ nữ bán quán thương hại, ánh mắt Mai, Cường, Hoa khinh bỉ.

    Ngất đi, Đào không nghe được mẫu đối thoại giữa giám đốc công an và tổ trưởng bắt Đào.

    – Thưa thủ trưởng, giờ ta lập biên bản ra sao? Bộ đội đi giết người cướp của là kẹt lắm.

    – Ồ, ĐM, có gì đâu, đơn giản thôi. Bảo hình sự và điều tra chữa biên bản đi. Cứ cho nó là thằng nghiện ma tuý, mạo nhận danh bộ đội đi làm bậy. Thế là gọn nhất, nghe rõ chưa?

    Diệu Tần

    CHÚC THỌ CỤ HÀ

    Mừng Cụ thôn Hà đã đổi tên *

    Chín lăm tuổi hạc thật là hên

    Xuân Ninh vào đạo mong sống lại

    Mai Thảo đòi tên nổi miếu đền **

    Chúa ngự trên cao ra phép lạ

    Phật ngồi dưới thế nối thiền duyên

    Thế là xong nhỉ, là vui nhỉ !

    Chúc Cụ Phê-Rô hưởng phước tiên

    Diệu Tần kính chúc

    Nhà Văn – Nhà Thơ PHƯƠNG HOA – Diệu Tần Giới Thiệu

    Tác giả vừa gởi cho tôi ba cuốn tập Truyện Ngắn: “Yêu Nhau Mấy Núi”, “Chung Một Ước Mơ” và “Thằng Nước Mắm” chẳng phải chuyện đời thường. Số trang cộng lại là trên 900 trang. Đến nay, tôi đã nghiền ngẫm kỹ thấy quá hay. Những chuyện đời thường được ghi lại chính xác, không có lỗi chính tả và không hư cấu. Đó là những mảnh đời kết cuộc có hậu với lời văn súc tích, bình dị, nhưng vẫn được viết khá sâu sắc. Đã có vài chuyện chấm hết có đau thương, những lầm lỗi là do con người, do trời, do thượng đế bầy ra, nhưng vẫn đầy tính nhân bản, những tấm gương sáng xen lẫn với những u ám, bão táp.

    Tôi có một bài tựa ngắn mở đầu của “Chung Một Ước Mơ” nhưng chưa đủ. Tập chuyện đầu có một chủ đề: để làm quen với độc giả, Phương Hoa đã tự giới thiệu “làm quen” tự nói về nội dung chuyện thật khéo và đầy đủ.

    Tôi thích nhất là chuyện kể về thằng “gút gồ” và trụ sở Google, chuyện người con trai của chính tác giả, em thật giỏi và có óc sáng tạo, thông minh, nhìn xa trông rộng, rõ ràng là cha mẹ nào con nấy. Người tài và giỏi Hoa Kỳ luôn đi trước. Thiên hạ vì đầu óc sáng tạo, chưa chi đã lo cạnh tranh với Tập Cận Bình về Nam Cực, với Nga về Bắc Cực, chưa chi đã lo SpaceX, lập hẳn một cơ quan chính thức về không gian, vũ trụ, để tìm đất mới. Người Mỹ luôn luôn tìm cái mới lạ tân tiến hơn. Người Mỹ còn có tấm lòng vị tha rộng lớn như đại dương. Trong khi chính dân Mỹ cho tới nay mới chỉ có non 10% được chích ngừa Covid 19, nhưng đã đóng góp qua Liên Hiệp Quốc vài triệu liều chích ngừa bệnh quái ác đại dịch. Thật là cao quý.

    Tập thứ hai đi sâu vào tìm hiểu xã hội Mỹ và gia nhập thật sự vào văn hóa Mỹ.

    Ngắm bìa sách đã thấy vang lên câu hò “… mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua…”. Nhân vật Ngọc Trâm đã nói đến tình yêu đôi lứa, gia đình. Tôi nghĩ sẽ không nên nói đến những chi tiết khác, nhận xét khác của các vị đã bàn khảo chưa chi đã tỏ ý cạnh tranh đối đầu ở Bắc Cực với Nga, đã lập hẳn chính thức chuyện họ vào không gian SpaceX, đã vội vàng lên tiếng đất đai ở Nam Cực. Nước Mỹ dân số hơn 300 triệu, nhưng đã giàu lòng vị tha, đóng góp hơn vài triệu liều thuốc chích ngừa đại dịch Covid 19 cho những nước nghèo, hướng dẫn các nước Nhật, Ấn Độ, Úc về các loại thuốc trừ dịch, phương thức điều trị, v.v…  Văn, thơ, nhạc của nghệ sĩ văn hóa Cao Minh Hưng, thi sĩ Hồng Thủy, nhà thơ Chinh Nguyên, nhà văn Lê Nguyên Hằng, nhà văn Nguyễn Văn Sâm…là những người đã viết cảm nhận và giới thiệu trong ba tuyển tập của Phương Hoa.

    Một ý khác của tôi về hai chữ “đời thường”: Nếu có nghĩa là đời sống thẳng lọng, ít đổi thay, đôi khi chán mứa, u buồn, trên thực tế, qua ngòi bút Phương Hoa lột tả: đời sống sôi động, sóng gió qua những biến chuyển liên tiếp đã đi sâu hơn nữa đời sống Mỹ, đặc biệt qua Tuyển Tập 3, coi như 3 tuyển tập chị viết cho nhật báo Việt Báo. Đời sống đó đã biến một người di cư thành một người khác. Điển hình là chuyện kể “Người Có Bảy Đời Chồng” rồi Tiệc Gà Tây, Người Đãi Vàng”, “Hoa Poppy”…

    Theo người khó tính, bất cứ người thanh niên nào thành công trên đất Mỹ, nhưng trong gia đình vẫn nên theo văn hóa Á Đông. Mình là khách ở trọ, quê hương đích thực là Việt Nam. Có người có thể cho rằng chị Phương Hoa đã quá lạc quan, mình ở đất nước người, trước sau gì vấn đề immigrant thôi, cả con cháu mình cũng vậy, dân da trắng đến đất nầy từ cuối thế kỷ XIIIV, là đất mua của Nga, của dân La tinh và đất riêng lâu đời của người da đỏ, ông Trump đã từng nói đến thời dân ngoại hạng là da trắng! Người da trắng đứng đầu các sắc dân vàng, đen, đỏ… Dạo tôi chưa về hưu có nghe nói giáo sư Nhật thường giữ gia phong theo văn hóa riêng; tuy nhiên các nữ giáo sư là người Mỹ da trắng. Quay sang các giáo sư người Trung Quốc và Hàn Quốc, tôi thấy rõ ra là họ đã giữ được nếp sống bảo thủ trong gia đình. Lời chúc Tết đầu năm, khi nghe các sinh viên Mỹ tuy nói tiếng Quảng Đông “Cống Hỷ Phát Xồi” họ nhăn mặt vì lời chúc đã xưa quá rồi, cái gì hễ qua rồi thì bỏ, điều gì hay hãy giữ lấy.

    Nói chung ba tuyển tập của nhà văn, nhà thơ Phương Hoa thật có giá trị văn học đáng phục, đáng nể. Vậy đến bao giờ chị cho ra mắt tuyệt phẩm đời viết văn, làm thơ của chị. Chị đang hồi sung sức sáng tác. Tác phẩm tuyệt vời đó sẽ được đón nhận nồng nhiệt hơn nữa. Đời viết văn thường khó kéo dài, mục đích viết để giải trí, để lại cho con cháu.

    Tôi xin trân trọng giới thiệu ba tuyển tập của nhà văn Phương Hoa.

    Diệu Tần

    14/3/2021

  • Thái Lan,  TRUYỆN DỊCH

    L’épave (Henry Gréville) – Mảnh Tàu Nổi Trôi -Thái Lan Dịch

    L’épave (Henry Gréville) – Mảnh Tàu Nổi Trôi(Thái Lan Dịch)

    Henry Gréville

    L’épave – Henry Gréville

    Le vent qui soufflait en tempête depuis la veille au soir s’était calmé un instant ; un rayon de soleil, jaune et pâle, traversa les nuages et fit briller comme de l’étain neuf les toits de schiste bleuâtre. Roger ouvrit la fenêtre ; la senteur âpre et bien connue du varech poussé sur les plages par les hautes marées le saisit à la gorge, et il l’aspira avec délices en fermant les yeux pendant un instant. Les arbres avaient assez bien résisté ; beaucoup de feuilles brunes jonchaient le sol, mais les hêtres perdent leur feuillage de bonne heure, et les ouragans n’effraient pas les troncs serrés en rang épais le long des grandes avenues, sur les haies doubles, ni leurs branches enchevêtrées, courbées dès l’enfance dans la direction la plus fréquente du vent. Quelques rosiers remontants n’avaient plus leurs roses de la veille, quelques tiges grêles avaient cédé dans le parterre, et c’était tout.

    159 Roger interrogea le ciel du regard. – Dites donc, monsieur, lui dit la vieille servante qui venait aussi examiner le temps, est ce que ce n’est pas fini, le sabbat de cette nuit ? – Je crois plutôt que cela va recommencer, répondit-il. Les grands nuages s’avançaient en masses régulières et lourdes comme des escadrons de cavalerie ; leur teinte uniforme, leurs bords réguliers, annonçaient qu’ils venaient de loin, ils arrivaient de l’horizon, vite mais sans hâte fébrile, dans toute leur puissance et leur majesté. Le rayon jaunâtre qui glissait entre les nuées venait du second tiers de l’horizon ; le zénith appartenait tout entier à ces cohortes redoutables. La pluie tombait par intervalles, droite et régulière, car le vent ne soufflait plus à la surface de la terre, et de moins accoutumés à ces fausses accalmies eussent cru le danger passé. Roger prêta l’oreille, et le grand fracas des vagues qui déferlaient à une lieue de là, sur la plage, lui arriva comme l’écho d’une bataille.

    Le froissement des galets roulés rappelait les 160 mitrailleuses, les lourdes vagues, s’écroulant à pic, imitaient les coups de canon… Il écoutait la tête penchée. Soudain, l’ouragan reprit, le vent souffla en foudre, comme disent les marins, les branches des hêtres craquèrent et se rompirent sous cet assaut inattendu. Du fond du ciel, d’énormes masses nouvelles, presque noires accoururent, se précipitèrent sur les lourds escadrons réguliers, puis, emportées par un courant irrésistible, se déchiquetèrent en lambeaux qui s’en allèrent on ne sait où. Les nuages gris disparurent roulés par la tempête, une brume noirâtre envahit le ciel, fondue en petite pluie fine qui frappait douloureusement le visage, et au-dessus des bruits de la terre ainsi violentée dans tout ce qui croît à sa surface, l’écroulement des vagues monstrueuses frappa régulièrement la grève, semblable au roulement du tonnerre.

    Roger ferma sa fenêtre, descendit l’escalier de granit qui résonnait sous les clous de ses souliers de chasse, et, passant devant la servante, se trouva dans le jardin. – Monsieur, est-ce que vous sortez ? Il n’y pas 161 de bon sens. – C’est trop beau, répondit-il de son ton calme ; il faut que j’aille voir cela. Pendant que la vieille femme grommelait et levait les mains au ciel, il était déjà sur la route, et marchait résolument à la rencontre de l’ouragan furieux. Le paletot bien boutonné, les mains enfoncées dans ses poches, offrant au vent aussi peu de prise que possible, il fit assez rapidement un quart du chemin, protégé par l’abri des haies de terre battue qui enclosent les pièces de terre, et qui faisaient obstacle au vent de la mer.

    Mais, au premier coude de la route, cet abri disparut, et il se trouva en butte à toute la rage de la tempête; vainement il voulut résister, il se trouva soudain acculé contre l’angle du chemin. Baissant la tête, s’adossant au mur, il attendit un moment plus favorable ; bientôt il put lever les yeux et regarder devant lui. Le soleil brillait toujours, et sa clarté pâle, presque blanche, donnait un singulier aspect maladif aux objets qu’elle éclairait. Les brumes qui passaient en courant dans le ciel empêchaient le plus souvent ses rayons d’arriver jusqu’à la terre, et c’est l’Océan seul qui les recevait. Entre les deux hautes collines couronnées de bruyères qui descendaient en pente abrupte dans la vallée jusqu’au rivage, le coin de mer que Roger pouvait apercevoir semblait une vaste coupe pleine d’écume et de reflets métalliques. L’onde affolée au large se brisait en vagues contrariées, formant des bandes immenses qui accouraient frénétiquement à l’assaut d’un rocher noir, le recouvraient et retombaient en un bouillonnement laiteux qui se répandait au loin comme une nappe d’huile ; puis la vague, se reconstituant, prenait de plus en plus d’ampleur, et immense, effrayante, venait battre le galet qui s’écroulait avec fracas sous ces coups épouvantables.

    Saisi d’un désir irrésistible de contempler de plus près ce spectacle étonnant, Roger rassembla ses forces, et se lança en courant sur la route en pente. À mesure qu’il descendait, la violence du vent diminuait, et, quand il fut au fond de la 163 vallée, il se trouva dans une zone presque calme. Il ralentit sa course, reprit haleine, secoua ses vêtements et regarda autour de lui. À quelques pas en avant marchait une forme brune, la tête enveloppée d’un voile épais, aux plis serrés ; il n’eut pas besoin de la regarder deux fois, un tressaillement de son cœur lui avait appris le nom de cette promeneuse hardie. En toute autre circonstance, il eût peut-être rebroussé chemin, – à quoi sert de se parler quand on ne peut s’entendre ? – Mais il est des jours où un esprit de vaillantise et d’audace s’empare de nous et nous porte plus loin que ne le voudrait notre raison, si on la consultait ; Roger doubla le pas et rejoignit la promeneuse. – Par ce vent affreux ? lui dit-il, au moment où il se trouva près d’elle.

    Elle tressaillit aussi, non de frayeur, et répondit : – Rien au monde n’est plus beau. – C’est mon avis, dit Roger. Ils se remirent à marcher de conserve dans l’air apaisé de ce coin de vallée, protégé par une haute colline. – Vous allez loin ? demanda-t-il au bout d’un instant. – Jusqu’au rivage. Je suis sortie exprès pour voir l’effet de ce soleil étrange sur cette mer en furie. Il y a là un contraste qui me navre et qui m’attire. N’est-il pas vrai que le soleil ne devrait briller que sur des scènes de paix, sinon de joie ? – Les malheureux ont pourtant quelque droit à un peu de consolation, répondit Roger. – Ah ! reprit-elle avec amertume, un tel soleil ne console pas… il ne fait qu’éclairer les souffrances, et les souffrances préfèrent l’obscurité. Roger ne répondit pas. Ils ne voyaient plus l’Océan, et une sorte de calme semblait renaître en eux. Après Quelques minutes, il interrogea encore sa compagne, mais avec une espèce de soumission mélancolique. – Vous vouliez quitter ce pays, dit-il ; n’avez vous point changé d’avis?

    – Que sais-je! répondit-elle avec amertume. Est-ce que je sais ce que je veux? J’en viendrai à me fuir moi-même; – mais cela, c’est ce qu’aucun voyage, si lointain qu’il soit, ne peut me donner. J’ai vu bien des contrées, et mon humeur est toujours la même, elle ne changera pas, allez ! – Détestez-vous ce pays plus qu’un autre ? demanda-t-il, avec cette même tendresse craintive que démentaient ses yeux hardis et sa bouche résolue. Elle secoua la tête sans répondre. Une douceur fugitive détendit ses traits contractés par l’amertume. – Non ! plus que tout autre, je l’aime ou j’ai cru l’aimer… J’y serais morte avec joie, mais je ne peux pas mourir, rien ne me tue ! L’amertume reparut sur ses traits délicats, et elle fit de la main un geste plein de colère hautaine. – Il faut que je m’en aille ! reprit-elle aussitôt: oui, il faut que je m’en aille. Je n’ai que trop 16 attendu. Elle prononça ces derniers mots d’une voix toute pleine de reproches et d’angoisses. – Vous pourriez être heureuse ici, reprit Roger, vous y êtes aimée… Vous ne le serez jamais mieux ni plus ailleurs… mais ailleurs, on vous attend sans doute!

    – M’attendre! Et qui, grand Dieu! m’attendrait ? Où? Je n’ai plus rien : ni patrie, ni famille: j’ai tout brisé autour de moi. J’ai changé mon or pur contre du cuivre empoisonné, et depuis lors personne, non, personne, entendez vous, Roger ? ne m’aime ni ne m’attend. La route tournait subitement, une rafale aiguë leur ferma la bouche à tous les deux. Le rivage était proche ; sans se toucher la main, sans presque sembler se connaître, ils gravirent le mur de galets que les hautes marées élèvent chaque fois, et qui protège le village contre les coups de mer, puis ils s’arrêtèrent pleins d’une horreur sacrée. À dix pas d’eux, battant son plein, la mer 167 attaquait la terre, sa vieille ennemie, avec la rage de sa plus formidable colère. Quelques pouces de plus, et la digue protectrice était franchie ; – mais le soleil déclinait vers l’horizon, et, pour ce jour là, l’Océan n’irait pas plus loin. La violence du choc faisait trembler sous leurs pieds l’amas de galets mal entassé ; un frisson, non d’épouvante, mais de respect pour cette force indomptable, les secouait de la tête aux pieds ; ils s’assirent sur le galet, à quelque distance l’un de l’autre.

    Étroitement enveloppée dans son vêtement d’un brun très foncé, qui laissait deviner son corps svelte et nerveux, la tête légèrement inclinée en avant sous le voile qui serrait ses tempes et ses cheveux noirs, elle semblait la statue de la concentration. Roger ne voyait que son profil délicat de médaille grecque, et cependant il sentait le regard de ses yeux verts se fixer sur les vagues comme pour les interroger. Dans cette courte conversation sur la route, elle venait de lui révéler la plaie de son cœur, jusque-là si religieusement cachée. Elle avait aimé, au loin sans doute, car, dans ce pays qu’elle habitait depuis deux ans, personne ne savait rien d’elle, sinon qu’elle était bonne et charitable, assez riche pour n’avoir besoin de personne, assez simple pour ne rien posséder de meilleur que les autres, assez réservée pour que personne n’osât l’interroger. Pourquoi Roger s’était-il épris de cette énigme vivante ? Pourquoi, lui qui pouvait choisir parmi toutes les jeunes filles du pays et de la ville voisine, avait-il vécu depuis dix-huit mois dans une retraite presque absolue, voyant rarement la jeune femme, et ne trouvant plus de plaisir auprès d’aucune autre ? C’est peut-être parce qu’il avait trouvé en elle ce qui précisément manquait aux autres : l’intelligence pour partager ses goûts artistiques fruit de ses études, la connaissance du monde, qui fait que l’on s’entend aussitôt entre gens bien élevés, – et la beauté, – la beauté absolue, celle des lignes, qu’éclaire, comme une flamme intérieure, le sens du beau et du bien poussé à sa plus haute limite.

    Il l’aimait, et ne pouvait le lui dire ; entre elle 169 et lui, elle avait toujours placé une barrière infranchissable de dignité glaciale ; pourquoi aujourd’hui avait-elle levé un coin du voile qui couvrait sa vie mystérieuse ? Et lui, chose bizarre, au lieu de se sentir froissé de ce demi-aveu, il en éprouvait une sorte de joie inquiète et troublée. C’est qu’il vivait loin du monde. Lui aussi n’avait trouvé qu’un métal méprisable en échange de ses trésors, et le monde lui importait si peu qu’il ne tenait plus à lui. Mais elle… n’aimait-elle vraiment plus rien ? Jadis, dans leurs premiers entretiens, elle avait paru détachée de tout ; une amertume souveraine, un dédain glacial, étaient le fond de sa philosophie ; mais en ces derniers temps, elle avait semblé s’attendrir ; parfois, sa voix émue avait laissé tomber l’entretien commencé… Sentait-elle la vie revenir à son âme desséchée ? Ce n’est pas à vingt-quatre ans qu’on est sûre d’être à jamais morte au bonheur ! Tout en songeant à ces choses, il la regardait, et s’efforçait de deviner quelle pensée douloureuse attachait ses yeux sur l’Océan en furie. Il vit une larme, ce n’était pas une goutte d’eau, se détacher des longs cils noirs et rouler sur les joues pâles, où le poudrin de la mer attirait une teinte à peine rosée. Les larmes se succédèrent lentement d’abord, puis plus pressées, et lui n’osait parler, n’osait approcher, craignant de lui rappeler sa présence peut-être oubliée, craignant de la faire s’enfuir, pour cacher la faiblesse de ce cœur jusque-là si bien fermé. Que n’eût-il pas donné pour essuyer avec ses lèvres ces larmes silencieuses, irrécusable preuve de longues douleurs subies dans la nuit et dans la solitude ? Qui donc avait pu la blesser, cette âme fière, si digne d’estime et d’amour ?

    Ah! quel que fût son destin dans le passé, elle avait été victime, non coupable, ses yeux purs et son front honnête l’attestaient hautement. Les vagues énormes déferlaient devant eux, si près qu’elles semblaient à chaque fois vouloir les engloutir. Elles accouraient du large avec une crête d’écume de plus en plus haute et mousseuse ; à travers l’onde glauque on voyait la clarté du 171 soleil ; souvent, un rayon jaune filtrait, bien loin, sur le sable fin que laissait voir la vague transparente. Elle approchait rapidement, haute de quinze pieds, se recourbant en volute frangée ; arrivée au bord du galet, elle s’écroulait tout d’une masse, comme s’écroulerait un palais, avec un bruit terrible, et se précipitait à l’assaut des galets, puis, redescendant la pente du rivage, courait à la rencontre d’une autre qu’elle prenait corps à corps, et réduisait en poussière d’écume impalpable et salée.

    Les flocons que les marins appellent les papillons blancs de la mer s’envolaient au fond des terres où les moutons parqués dans la lande les voyaient avec surprise tomber sur les fleurs des ajoncs. La jeune femme tourna la tête vers Roger ; le vent avait séché ses larmes, et de son désespoir récent il ne lui restait plus qu’une expression navrée. Elle se leva et dit quelques mots. Il ne pouvait l’entendre au milieu de ce fracas, et il se rapprocha pour pouvoir lui répondre. Ils étaient tout près l’un de l’autre ; cependant il restait entre eux un petit espace qui ne permettait pas même à leurs vêtements de se toucher. Elle lui montrait du doigt, à quelque distance, un objet sombre, qui, porté par les eaux, avançait et reculait sans pouvoir toucher le rivage ; cependant, repris par une vague plus forte, il se trouva bientôt sous leurs yeux. Dans l’onde verte et transparente, il semblait d’un noir intense ; c’était une simple planche arrachée à quelque barque ; elle ne portait aucune indication et n’offrait rien d’intéressant. – C’est une épave, dit Roger. Pour s’entendre, ils devaient se parler à l’oreille, et son souffle effleura la joue de sa compagne. – En arrive-t-il beaucoup ainsi ? demanda-t elle d’une voix lente, comme épuisée par l’intensité de la douleur.

    – Parfois, après les grandes tempêtes. Quoique ce soit défendu par les lois, on n’ôtera pas de la tête de nos paysans que le droit d’épave est un droit sacré. 173 – Le droit d’épave ? répéta la jeune femme en tournant la tête vers Roger. Il vit alors dans ses yeux profonds l’immensité d’une douleur irrémédiable ; il y vit aussi, telle que le rayon jaune dans la vague transparente, la clarté d’une tendresse douloureuse qui s’épanchait sur lui, sans joie et sans espoir. Troublé, il continua : – Oui, dans leur idée, l’épave appartient à celui qui la sauve ; il a parfois bien du mal à la disputer à la mer, il la tire à grand-peine hors de la portée des vagues, on ne peut lui persuader ensuite qu’elle n’est pas à lui… C’est la loi du pays : l’épave est à celui qui l’a planche me fait de la peine ; elle ne peut ni sauvée. Elle répéta machinalement : – L’épave est à celui qui l’a sauvée. L’épave allait et venait sous leurs yeux, tantôt rejetée sur le sable, tantôt reprise par la vague, tournée et retournée cent fois en une minute.

    La jeune femme se leva et fit quelques pas. – Allons plus loin, dit-elle ; cette pauvre planche me fait de la peine ; elle ne peut ni s’écarter ni trouver un port. – Elle trouvera bien quelqu’un pour la sécher et la brûler, répondit Roger. – Eh bien ? fit-elle en tournant vers lui son visage soudain enfiévré, elle sera au moins bonne à quelque chose ! Elle apportera dans la cabane la flamme et la chaleur qu’elle possède en elle… cela ne vaut-il pas mieux que d’errer toujours, incessamment battue par les tempêtes ? Elle s’assit sur le galet et promena son regard autour de l’horizon toujours chargé de nuages. Le soleil avait disparu, et toute la tristesse de la tempête revenait plus intense, avec une pluie méchante et rageuse qui les frappait au visage ; elle ne la sentait certainement pas.

    L’endroit où ils s’étaient assis formait une petite crique, et la vague, moins profonde, y était, aussi moins bruyante. Ils pouvaient se parler et s’entendre ; cependant il se trouvait tout près d’elle. – J’aurais aimé, dit-elle, de cette voix trempée de larmes qui la rendait si vraie et si touchante, 175 une petite maison avec un jardin, beaucoup d’air, beaucoup de lumière, du soleil de tous les côtés… un peu d’aisance, – mais cela, je l’ai et ne le dois à personne, c’est tout ce qui me reste de mon enfance heureuse ; – j’aurais voulu un être à aimer, qui ne fût pas un chien, car les chiens meurent avant vous, et on les pleure… un être à aimer, qui ne m’eût ni en mépris ni en pitié, qui m’aimât comme une créature semblable à lui… et pour celui-là, – ainsi que l’épave de là-bas, – j’aurais donné ma flamme et toute ma chaleur, dussé-je mourir rapidement consumée… mais pas sans avoir fait un peu de bien, pas sans avoir connu la joie du sacrifice récompensé… je n’ai jamais connu que l’autre, celui qu’on vous reproche, en vous disant : Je ne l’avais pas demandé ! Il la regardait, interdit, n’osant la comprendre, n’osant lui répondre. Est-ce que vraiment elle voudrait, après tant de souffrances, qu’il ignorait, mais qu’il devinait si bien, mettre sa main dans celle d’un honnête homme, simple de cœur et de goût, sans grande fortune, elle faite pour porter hardiment toutes les couronnes ?

    – Mais non, reprit-elle, je suis l’épave qui flotte à toutes les vagues, qui bat tous les rivages, et je mourrai réduite en poussière contre tous les rochers de la vie, sans avoir éclairé ni réchauffé de foyer. Elle s’était levée et marchait sur le sable que la mer, en se retirant, laissait à sec peu à peu. Une vague monstrueuse s’avançait, Roger se recula instinctivement, croyant que sa compagne faisait de même. Soudain, dans l’écroulement du flot, il entendit un cri et vit rouler une forme brune. Semblable à l’épave, elle flottait dans la transparence glauque de la vague, abandonnée comme un corps inerte. Sans pousser un cri, les dents serrées, décidé à reprendre sa proie à l’Océan trop avide, il entra dans l’eau, reçut sur la tête le choc de deux ou trois lames, plongea, reparut, saisit le corps qui ne résistait pas, et le rapporta sur le rivage, serré contre sa poitrine. Il courut jusque derrière le galet, et là, sur une couche de sable fin, il déposa celle qu’il avait reconquise.

    Elle ouvrit les yeux et les fixa sur lui, avec quelle douceur soumise, avec quelle tendresse éperdue ! – Vous m’avez sauvée, lui dit-elle d’une voix faible, et sans pouvoir remuer, dans le grand engourdissement de tout son être. Je suis l’épave. Savez-vous que l’épave est à celui qui la sauve ? – Je le sais, répondit-il, en la regardant comme une mère regarde un enfant malade. C’est ainsi que vous êtes à moi pour toujours.

    Paris, 9 mars 1879. 

    Henry Gréville

    Bài Dịch: Mảnh Tàu Nổi Trôi

    Cơn gió bão từ tối hôm trước đã dịu đi trong giây lát; một tia nắng vàng nhạt xuyên qua mây khiến những mái nhà đá phiến xanh sáng bóng. Roger mở cửa sổ; anh nghe mùi tảo quen thuộc dạt vào bãi biển khi thủy triều dâng cao, và anh nhắm mắt lại hưởng một cách thích thú. Cây cối vẫn mạnh mẽ chống chọi lại bão tố ; nhiều chiếc lá nâu vương vãi trên mặt đất, những đám cây sồi rụng lá sớm, bao nhiêu cơn lốc không làm những thân cây dày đặc dọc các con đường rộng chùng lòng, chúng đã uốn cong theo hướng gió ngay từ khi chúng còn bé. Một vài bụi hồng mọc lại đã rụng hoa từ đêm trước, chỉ còn trơ trụi vài cành cây mảnh mai.

    Roger nhìn lên bầu trời, suy nghĩ.

    Bà giúp việc cũng đến nhìn trời và nói:

    -Thưa ông, buổi lễ hội của trời đất đêm qua vẫn chưa tan sao ạ?

    -Tôi nghĩ bão vẫn tiếp tục, bà ạ, anh trả lời.

    Những đám mây lớn ào tới một cách nặng nề như những đội kỵ binh; màu sắc đồng nhất của chúng, với đường viền đều đặn, cho ta biết chúng đến từ rất xa, từ chân trời, nhanh chóng, mạnh mẽ và uy nghi. Tia sáng vàng nhạt lướt giữa những đám mây đến từ phần bên kia của chân trời; thiên đỉnh hoàn toàn thuộc về những đoàn quân ghê gớm này. Mưa rơi liên tục và đều đặn, vì gió không còn thổi trên mặt trái đất nữa, và những người không quen với sự yên tĩnh giả tạo này sẽ tin rằng mối nguy hiểm đã qua. Roger lắng nghe, và tiếng sóng vỗ lớn cách xa hàng dặm trên bãi biển vang đến tai anh như tiếng vang của một trận chiến.

    Những đám mây xám biến mất do cơn bão cuốn đi, một làn sương mù đen kịt lan ra trên bầu trời, rồi nhung hạt mưa nhỏ quất vào mặt làm rát da, và thêm vào những tiếng rền vang của mặt đất, từng đợt sóng khủng khiếp đập vào bờ như sấm sét.

    Roger đóng cửa sổ lại, đi xuống cầu thang bằng đá granit, tiếng giày vang lên.

    – Thưa ông, ông định ra ngoài đấy ư? Có lẽ không nên đâu ạ.

    – Khung cảnh đẹp quá, tôi phải đi xem đây, anh trả lời bằng giọng bình tĩnh.

    Bà lão đang càu nhàu và giơ tay lên trời, anh đã ra ngoài đường, kiên quyết đón cơn cuồng phong dữ dội. Cài cúc chiếc áo khoác, hai tay thọc vào túi, để gió không thể tấn công được, anh nhanh chóng bước đi, qua đám hàng rào bằng đất bao quanh các thửa đất chắn gió mạnh từ biển thổi vào-

    Mặt trời vẫn chiếu sáng, một thứ ánh sáng nhợt nhạt gần như trắng khiến những vật thể được chiếu sáng có vẻ yếu đuối một cách kỳ lạ . Sương mù bay qua bầu trời ngăn cản tia sáng chiếu vào trái đất và chỉ có đại dương tiếp nhận ánh sáng. Sóng cuồng trên biển vỡ thành từng đợt đối nhau, tạo thành những dải mênh mông lao điên cuồng tấn công vào tảng đá đen, bao phủ mỏm đá rồi lại rơi xuống thành đám bọt trắng đục lăn ra xa như một tấm dầu; rồi làn sóng lập lại, ngày càng mạnh hơn, to lớn, đáng sợ, đánh vào những viên đá cuội, sụp đổ hẳn bởi những cú va chạm khủng khiếp.

    Bị thôi thúc bởi mong muốn được chiêm ngưỡng cảnh tượng đáng kinh ngạc này kỹ hơn, Roger cố gắng bắt đầu chạy xuống con đường dốc. Khi anh đi xuống, cường độ gió giảm dần, và khi anh đến bên dưới thung lũng, anh thấy mình ở một vùng gần như yên tĩnh. Anh bước chậm lại, lấy lại hơi thở, rũ những hạt nước trên áo và nhìn xung quanh. Anh nhìn thấy phía trước một hình dáng mờ mờ, đầu quấn khăn; anh không cần phải nhìn hai lần, trong trái tim hồi hộp của anh đã cho anh biết tên của người bộ hành rất dạn dĩ này.

    Nếu như vào một thời điểm khác, có lẽ anh đã quay gót đi – nói chuyện với nhau có ích gì khi chúng ta không thể hiểu nhau? – Nhưng có những ngày mà sự dũng cảm và táo bạo chiếm lấy hồn ta và đưa ta đi xa hơn những điều lý trí mong muốn, nếu ta tham khảo ý kiến của suy xét bình tĩnh và cẩn thận; Roger bước nhanh và đến bên cô ấy. – Cô dám ra ngoài với cơn gió khủng khiếp này ư? anh hỏi cô, lúc đã đến bên cạnh cô gái.

    Cô giật mình, vì đột ngột chứ không phải vì sợ hãi và đáp:

    – Cảnh vật bây giờ thật là tuyệt!

    – Tôi cũng nghĩ như vậy, Roger nói.

    Họ lại bước đi bên nhau trong không khí đã lắng dịu ở góc thung lũng này, ngọn đồi cao đã ngăn chặn cơn bão.

    – Cô định đi xa không? anh lại hỏi.

    – Tôi muốn đến bờ biển. Tôi cố tình đi ra ngoài để xem mặt trời kỳ lạ này ảnh hưởng thế nào trên vùng biển đang nổi cơn thịnh nộ này. Có một sự tương phản làm tôi ngao ngán nhưng vẫn có điều gì quyến rũ tôi. Phải chăng mặt trời chỉ nên chiếu sáng những cảnh bình yên, hay ít ra là niềm vui thôi ?

    – Những người bất hạnh vẫn có quyền được an ủi một chút chứ, Roger trả lời.

    -Vâng! cô cay đắng trả lời,- ánh nắng như vậy không an ủi được… nó chỉ soi sáng nỗi đau, và nỗi đau lại thích bóng tối hơn.

    Roger không trả lời. Họ không còn nhìn thấy Đại dương nữa và một cảm giác bình yên dường như đang trở lại trong họ. Sau vài phút, anh ta lại hỏi người bạn đồng hành, với giọng chấp nhận một cách buồn bã.

    – Cô muốn rời khỏi đất nước này, cô không thay đổi ý định sao?

    –Làm sao tôi biết được! Cô trả lời một cách cay đắng. Tôi có quyền biết mình muốn gì không? Tôi còn phải chạy trốn khỏi chính mình nữa cơ mà – nhưng muốn có được điều đó, bất cứ một cuộc hành trình nào, dù xa xôi đến đâu, cũng không thể cho tôi toại nguyện. Tôi đã đi qua rất nhiều quốc gia, tâm trạng của tôi vẫn sẽ không thay đổi, thế thôi!

    – Cô thù ghét đất nước này hơn bất kỳ nơi nào khác phải không? anh hỏi với vẻ dịu dàng e ngại trái ngược với vẻ dạn dĩ của đôi mắt và nét cương nghị từ đôi môi.

    Cô lắc đầu không trả lời. Một cảm giác ngọt ngào thoáng qua làm nét căng thẳng vì cây đắng trên gương mặt cô dịu bớt đi.

    -Không! tôi yêu anh ấy hoặc tôi nghĩ rằng tôi yêu anh ấy… Tôi có thể chết vì vui sướng, nhưng tôi không thể chết, không thể! Sự cay đắng lại hiện lên trên nét mặt thanh tú của cô, và cô khoát tay, giận dữ một cách kiêu kỳ. – Tôi phải đi đây! đúng rồi, tôi phải đi. Tôi đã chờ đợi quá lâu. Những lời này được thốt ra với vẻ đầy trách móc và lo sợ.

    – Cô vẫn ở lại đây, có thể cô sẽ hạnh phúc, Roger tiếp tục, cô sẽ có được tình yêu … Cô sẽ không vui và hạnh phúc hơn ở bất cứ nơi nào khác … nhưng biết đâu ở nơi nào đó, có thể có người đang mong đợi cô!

    -Chờ tôi! Lạy Chúa ơi! Người nào sẽ đợi tôi chứ? Ở đâu? Tôi không còn gì cả: quê hương cũng không, gia đình cũng không: tôi đã phá vỡ mọi thứ xung quanh mình. Tôi đã đổi vàng nguyên chất của mình để nhận lấy đồng tẩm độc, và kể từ đó không còn ai, không một ai, anh nghe không, Roger? không một ai yêu tôi hoặc chờ đợi tôi.

    Con đường bỗng rẽ ngoặt gấp, rồi một cơn gió cực mạnh ào đến khiến cả hai phải ngậm miệng lại.

    Họ đã đến gần bờ biển; không chạm tay vào nhau, có vẻ như không hề quen biết nhau, họ trèo lên bức tường đá cuội mà mỗi lần thủy triều dâng cao lại bồi thêm vào, làm thành bờ đập bảo vệ ngôi làng khi sóng biển tràn vào, rồi họ dừng lại, kinh hoàng nhìn cảnh vật. Cách chỗ họ ngồi chừng mười sải chân, sóng biển đang tấn công mặt đất, kẻ thù từ xưa nay, và họ thẫn thờ như thế trước sức mạnh không chế ngự được của thiên nhiên.

    Qua bộ quần áo màu nâu sẫm nàng quấn quanh mình, ta có thể hình dung thân hình mảnh khảnh đang lo âu, đầu hơi nghiêng về phía trước dưới tấm khăn che sát mặt với mái tóc đen huyền, cô ấy như là bức tượng, đang cố gắng tập trung. Roger chỉ nhìn thấy hình dáng như ảnh tượng Hy Lạp thanh tú của cô, và cảm nhận đôi mắt xanh thật đẹp đang nhìn chằm chằm vào những con sóng như đang muốn biết chúng sẽ cuốn dữ dội thế nào đây. Lúc nãy khi kể lể vài dòng, cô vừa tiết lộ cho anh biết vết thương trong lòng cô, mà từ bấy đến nay vẫn được che giấu một cách thật chu đáo. Cô đã yêu, chắc là một người nào ở rất xa, bởi vì qua hai năm cô sống nơi đây, không ai biết gì về cô, ngoại trừ tính tình cô rất bác ái, không cần giúp đỡ về những nhu cầu, rất giản dị, không xa hoa cầu kỳ, rất dè dặt nên không ai dám hỏi han điều gì về cuộc sống riêng tư.

    Tại sao Roger lại say mê sinh vật bí ẩn này? Tại sao? trong khi anh có thể lựa chọn trong các cô gái trẻ ở miền này cũng như vùng lân cận, nơi anh đã trải qua mười tám tháng gần như hoàn toàn hưu trí, và thật hiếm khi anh gặp cô gái này, phải chăng anh không còn tìm thấy niềm vui ở bất kỳ ai khác? Phải chăng vì anh đã tìm thấy ở cô những điều thiếu sót ở những người kia: trí thông minh để cùng chia sẻ sở thích nghệ thuật của anh, – đó là thành quả học tập của anh-, chia sẻ những hiểu biết về thế giới,…những điều căn bản mang sự hòa hợp giữa hai người. – và thêm nữa vẻ đẹp, – vẻ đẹp tuyệt đối của những đường nét, được hoàn chỉnh ở đỉnh cao nhất cho tình yêu nồng nàn.

    Anh yêu nàng, nhưng không thể thổ lộ; giữa cô và anh, cô luôn đặt một rào cản không thể vượt qua bằng một sự trang nghiêm lạnh giá; tại sao hôm nay cô lại vén ra một góc màn cuộc đời bí ẩn của mình?

    Và thật kỳ lạ, thay vì cảm thấy bị xúc phạm khi nghe lời thú nhận nửa vời này, anh lại cảm thấy một niềm vui xen lẫn lo lắng và bối rối. Đó là bởi vì anh sống xa thế giới. Anh ta cũng chỉ tìm thấy một thứ chất liệu con người không đáng kể khi phải đổi lấy kho báu của mình, và bây giờ anh không còn quan tâm đến thiên hạ và môi trường nữa. Nhưng đối với nàng… có thật là nàng không còn yêu thích gì nữa hay sao? Trước đây, khi đầu tiên trò chuyện, cô ấy dường như dửng dưng với mọi việc ; sự cay đắng tột bậc, thái độ khinh thường lạnh giá, là căn bản triết lý sống của nàng; nhưng dạo gần đây cô ấy có vẻ dịu dàng hơn; đôi khi, giọng nói đầy cảm xúc của cô đã ngưng hẳn khi vừa mới bắt đầu kể một câu chuyện nào đó …

    Có phải cô cảm thấy tâm hồn khô héo của mình đang sống lại?

    Vừa miên man suy nghĩ , anh nhìn cô và cố đoán xem suy nghĩ chua cay nào khiến cô dán chặt mắt vào đại dương đang cuồng nộ. Anh nhìn thấy một giọt nước mắt, không phải nước mưa hoặc nước biển, đang rơi từ hàng mi đen dài, lăn xuống đôi má nhợt nhạt, và hạt mưa nhẹ vừa phủ lên màu hồng phấn. Nhìn những giọt nước mắt tiếp tục rơi từ từ, sau đó nhanh hơn, anh không dám hé môi, không dám lại gần, e sợ cô sẽ nhớ rằng anh đang hiện diện nơi đây, và sẽ chạy đi, để che giấu trái tim yếu đuối từ lâu nay vẫn một mực khép kín. Ước gì anh có thể đổi tất cả những gì anh sở hữu để lau những giọt nước mắt thầm lặng này bằng đôi môi mình, những giọt nước mắt làm bằng chứng rõ ràng về những nỗi đau không ngớt trong cô đơn, khi màn đêm buông xuống? Ai là người có thể làm tổn thương một tâm hồn kiêu hãnh, đáng được quý trọng và yêu thương này?

    Trên vùng đồng cỏ, đàn cừu ngạc nhiên nhìn những bông bọt biển mà các thủy thủ gọi là bướm trắng của biển rơi xuống những bông hoa cây bấc. Cô gái quay đầu nhìn về phía Roger; gió đã lau khô nước mắt của nàng, và nỗi tuyệt vọng ban nãy chỉ còn lại nét âu sầu. Cô đứng dậy và nói điều gì mà anh không nghe được, chung quanh quá ồn; anh tiến lại gần hơn. Họ đang đứng sát bên nhau; nhưng giữa hai người vẫn còn một khoảng trống, và quần áo của họ cũng không chạm vào nhau.

    Cô chỉ cho anh xem một vật thể màu sẫm bị nước mang theo con sóng, lao đến rồi lại bị cuốn đi mà không thể nào tấp vào bờ được; nhưng rồi một ngọn sóng mạnh đã mang vật ấy đến chỗ họ đang đứng. Trong làn sóng xanh trong suốt, hình thù ấy thành một màu đen đậm; và đó chỉ là một mảnh ván bị tách ra từ một chiếc thuyền nào đó; không thấy dấu hiệu nào để nhận biết, cũng không có gì đáng quan tâm.

    – Đó là một mảnh xác tàu, Roger nói.

    Họ phải đến gần sát tai nhau thì mới có thể nghe được, và hơi thở của anh phả vào má nàng.

    – Những mảnh tàu như thế này có thường trôi đến không? cô hỏi bằng giọng chậm rãi, như thể kiệt sức vì nỗi khổ đau khôn cùng.

    – Đôi khi, sau những cơn bão lớn. Dù bị pháp luật cấm nhưng người nông dân luôn nghĩ rằng quyền được giữ xác tàu đắm là một quyền thiêng liêng.

    – Quyền giữ xác tàu đắm? nàng hỏi lại, nhìn về phía Roger.

    Anh vừa nhìn thấy trong đôi mắt sâu thẳm của cô nỗi đau không thể nguôi ngoai; và nỗi đau dịu dàng ấy không có niềm vui và không có hy vọng, giống như tia sáng màu vàng trong làn sóng trong suốt đang tuôn ra trên người anh.

    Cảm thấy bối rối, anh nói tiếp:

    – Đúng vậy, theo quan niệm của họ, xác tàu thuộc về người đã nhặt được; đôi khi họ thật khó khăn khi phải giằng co với biển, thật vất vả mới kéo ra khỏi làn sóng hung dữ, rồi sau đó lại được xét rằng mảnh tàu đắm ấy không thuộc quyền sở hữu của mình …

    Thế nên luật của xứ này là: xác tàu sẽ thuộc về người đã mang được mảnh tàu về.

    Cô lặp lại, không suy nghĩ :

    – Xác tàu đắm thuộc về người đã cứu nó.

    Mảnh gỗ của xác tàu trôi đến rồi lại bị cuốn đi trước mắt họ, có khi bị ném lên cát, có khi bị sóng cuốn, đưa lên đưa xuống hàng trăm lần trong một phút.

    Người phụ nữ đứng dậy và bước đi.

    – Ta hãy đi xa hơn phía đằng kia, – cô nói; – tôi thấy miếng gỗ này tội nghiệp quá ; nó không thể đi xa cũng như không thể tìm thấy một nơi để tấp vào.

    – Nó sẽ tìm được người sấy khô và cho vào lò sưởi, Roger trả lời.

    – Vậy sao? – nàng quay nhìn anh ấy, gương mặt bỗng đỏ hồng lên – Ít ra thì nó cũng sẽ có ích ! Nó sẽ mang lửa và hơi ấm từ trong mình nó vào trong căn lều còn hơn là lang thang mãi, rồi bị bão giông vùi dập, anh thấy không?

    Cô ngồi trên một tảng đá và nhìn phía chân trời vẫn còn tràn ngập mây xám. Mặt trời đã biến mất, và nỗi u sầu do cơn bão mang đến lại trở nên sâu đậm hơn, với những giọt mưa dữ dội quất mạnh vào mặt họ; có lẽ nàng cũng không còn không cảm nhận được điều đó.

    Nơi họ ngồi là một cái vịnh nhỏ, ít sóng hơn và ít ồn ào hơn. Họ có thể nói chuyện và nghe thấy nhau; nhưng anh vẫn ngồi rất gần bên cô.

    Cô nói, bằng một giọng nói đẫm nước mắt, chân thật và cảm động:

    -Tôi ước gì có được một ngôi nhà nhỏ có vườn, chung quanh là cảnh vật bao la, tràn ngập ánh sáng, tia nắng rọi khắp nơi… một chút gì thật thoải mái, – những điều này tôi đã sở hữu và không nợ ai cả, đó là tất cả những gì còn lại của tuổi thơ hạnh phúc của tôi.–Tôi mong muốn có một sinh vật để yêu thương, không phải là loài chó, bởi vì chúng sẽ ra đi trước mình, và ta lại thương khóc chúng…mà một sinh vật để yêu, không khinh miệt, hoặc thương hại tôi, một sinh vật sẽ yêu thương tôi như một tạo vật tương đồng với họ… và đối với người ấy, – cũng như mảnh tàu trôi nổi ở đằng kia, – tôi sẽ sưởi họ bằng ngọn lửa con tim nồng nàn và toàn bộ hơi ấm của mình, cho dù tôi sẽ suy mòn kiệt sức rất nhanh … nhưng trước đó tôi phải hoàn thành được điều gì đó, phải tận hưởng được niềm vui khi đã hy sinh như thế … từ trước đến nay tôi chỉ nếm được điều ngược lại, luôn bị trách cứ rằng: “Tôi đâu có đòi hỏi việc này đâu!” –

    Anh nhìn cô, sững sờ, không đủ can đảm để hiểu những điều cô vừa thổ lộ, không dám trả lời. Nàng có thực sự ao ước, sau bao nhiêu đau khổ nàng đã gánh chịu mà anh không hề biết đến, nhưng anh đã đoán rất rõ, và người phụ nữ này, một người quả cảm đã mang bao nhiêu gánh nặng mà cuộc đời đã nghiệt ngã ban tặng cho cô, nàng có thực sự muốn giao thân phận mình vào tay một gã chính trực, rất đơn giản trong tình yêu và nhãn thức, với cơ nghiệp không có gì gọi là bao la vĩ đại không?

    – Nhưng không đâu, nàng trả lời, tôi là xác tàu trôi trên sóng, đập vào bờ biển khắp nơi và tôi sẽ tan thành cát bụi bám vào tất cả những tảng đá của cuộc đời, mà không bao giờ thắp sáng hay sưởi ấm một mái ấm gia đình nào. Cô đứng lên và đi trên cát đã dần khô khi nước biển rút đi. Một đợt sóng khổng lồ đang ập tới, Roger bước lùi theo bản năng và nghĩ rằng người bạn đồng hành cũng đang bước lùi.

    Đột nhiên, khi thủy triều vừa dâng lên và rút đi, anh nghe thấy tiếng kêu la và nhìn thấy một dáng hình màu nâu đang bị cuốn đi. Trông như một xác tàu bị đắm, vật thể đang trôi nổi trong làn sóng trong suốt lạnh lẽo và đen ngòm, trơ trọi như một cơ thể vô tri.

    Mím môi thật chặt, anh quyết tâm lấy lại miếng mồi từ đại dương tham lam, và lao nhanh xuống nước, đầu anh hứng chịu những ngọn sóng dữ chém vào, anh ngụp xuống, trồi lên, nhanh chóng giành lấy thân thể bất động, ôm thật chặt và bơi vào bờ. Anh chạy đến phía sau tảng đá, rồi đặt món quà mà anh ta vừa tranh giành được với sóng biển trên một lớp cát mịn.

    Cô mở mắt và nhìn anh, thật dịu dàng, thắm thiết, say đắm:

    -Anh đã cứu tôi, cô nói với anh bằng một giọng yếu ớt, không thể cử động vì toàn thân tê cóng.

    Tôi là xác tàu đắm. Anh biết rằng xác tàu trở thành sở hữu của người cứu nó không?

    -Tôi biết, anh trả lời, và nhìn cô như một người mẹ nhìn đứa con đau yếu.

    – Vì thế nàng sẽ thuộc về ta . . . đến thiên thu-

    Thailan dịch

  • Minh Thúy

    Hình Ảnh Buổi RMS “Dòng Chảy”

     

    Dòng Chảy

    Thân tặng Nhà văn Tôn Nữ Áo Tím

    Sông Hương nước chảy sóng xuôi dòng                  
    Áo tím phai màu vẫn đợi mong
    Tôn nữ triều xưa chìm mộng tưởng
    Thần gầy gió bạt trải long đong

    Bởi duyên hồ điệp ẩn chìm sâu
    Mà nẻo gió sương phủ bạc đầu
    Hạnh phúc nhạt nhoà theo giọt lệ
    Gối trăng nhặt những mảnh tình sầu

    Soi gương ẩn hiện bóng Hoàng Thành
    Áo trắng vương chiều giọt nắng hanh
    Đồng Khánh ngày xưa thời ước hẹn
    “Con Đường Phượng Vỹ” lá cây xanh

    Trao thầm thông điệp viết miên man
    “ Dòng Chảy” đàn ru khúc nhạc vàng
    Văn hóa xứ người lưu tiếng Việt
    Biển chương tác phẩm đã trình làng .
                Minh Thúy Thành Nội
                  Tháng 10/14/2023